Đã đăng trên
tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số
7(96).2012
Lê Mạnh Chiến
I.
Về Viện Hàn lâm
(hay Hàn lâm viện翰 林 院 trong Hán ngữ)
1.
Hàn lâm viện ở Trung Hoa và ở Việt Nam thời xưa
Theo từ điển Từ hải, chữ
hàn翰 (trong Hàn lâm viện翰 林 院) vốn
có nghĩa là một loai gà núi đẹp, gọi là cẩm kê, dịch sang tiếng Việt là “gà gấm”.
Về sau, chữ hàn 翰này còn có nghĩa là cái lông chim dài và cứng. Ngày xưa, ở châu Á cũng như ở
châu Âu, người ta dùng những chiếc lông chim dài và cứng để làm bút viết, do
đó, chữ hàn翰 lại có nghĩa là cái bút, và còn có thêm vài nghĩa khác nữa. Trong từ hàn
lâm翰林thì hàn 翰 nghĩa là bút, lâm 林nghĩa là rừng; hàn lâm 翰 林có
nghĩa đen là rừng bút, nghĩa bóng là văn đàn, là chốn tinh hoa về học thuật.
Thời nhà Đường, năm Khai Nguyên thứ 26
(738), Đường Huyền Tông tuyển mộ các triều
thần “văn hay chữ tốt” để soạn thảo các chiếu chỉ, mệnh lệnh, từ đó
sinh ra chức quan Hàn lâm học sĩ
(gọi tắt là Hàn lâm) và Hàn lâm viện, mà ngày nay chúng
ta gọi là Viện hàn lâm. Thời Tống, quan Câu đương Hàn lâm viện (tức là chủ quản
Hàn lâm viện) còn kiêm quản thiên văn, thư nghệ, đồ họa, y dược và cả việc bếp
núc trà rượu của triều đình. Nhà Nguyên lập Hàn lâm học sĩ viện, về sau hợp với
Quốc sử viện, gọi là Hàn lâm kiêm quốc sử viện. Thời Minh, Hàn lâm viện chính
thức trở thành cơ quan ngoại vi của triều đình. Thời nhà Thanh, Hàn lâm viện vẫn
đảm nhiệm việc biên soạn quốc sử, ghi chép lời nói và việc làm của hoàng đế, giảng
kinh sử, thảo văn kiện có liên quan đến các quy định về lễ nghi.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí
(phần Quan chức chí) do Phan
Huy Chú biên soạn thì ở Việt Nam, Hàn
lâm viện được thành lập từ năm 1086, thời vua Lý Nhân tông, với Mac Hiển
Tích là vị Hàn lâm học sĩ đầu tiên. Nhà Trần đặt chức Hàn lâm phụng chỉ
để soạn thảo các chiếu chỉ thay nhà vua, thường do thái sư đảm nhiệm. Nhà Lê
khi mới dựng nước cũng lập ngay Hàn lâm viện, do Nguyễn Trãi làm Hàn lâm phụng chỉ.
Phan Thanh Giản (1796 – 1867), vị tiến
sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, lúc mới đỗ đạt đã từng giữ chức Hàn lâm viện biên tu rồi thăng lên chức Hàn lâm viện kiểm thảo, thời vua Minh Mệnh .
Nói tóm lại, dù là ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, Hàn lâm viện là nơi tập
trung những người có học vấn cao để thực hiện những công việc liên quan đến
sách vở, trứ tác.
Từ “Hàn lâm viện” trong Hán ngữ
được dịch sang tiếng Latin là Academia (xuất hiện năm 1508 - theo từ điển Robert),
tương ứng với Academy, Académie, Академия
trong các thứ tiếng Anh, Pháp và
Nga (chữ Академия được phiên âm
là Akademiya). Điều đó cũng được thể hiện
trong Từ điển Annam -Latin
(Dictionarium Anamitic - Latinum) của A.J.L. Taberd (in năm 1838).
2.
Về các chữ Académie,
Academy, Akademiya (trong tiếng Pháp, Anh, và Nga, tương ứng với Academia trong tiếng Latin, với nghĩa là Viện học thuật )
Trong cuốn Pháp – Việt từ điển (ra đời năm 1936) của
cụ Đào
Duy Anh, ở mục từ Académie,
chúng ta thấy những lời dịch như sau:
1. Cái vườn
mà Platon giảng triết học ở đó, gần
thành Athènes;
2. Quốc gia
học hội, bác-học-viện, hàn-lâm-viện, đại học hiệu, đai học khu.
3. Du kỹ trường,
thể dục trường, như trường kỵ mã, trường đấu kiếm;
4. Bức họa người cổi truồng,
khỏa thân họa.
Sau đó, tác
giả nêu một số ví dụ:
-. Académie franaise: Pháp quốc hàn lâm viện (nay ta
gọi là Viện hàn lâm Pháp)
- Académie des sciences: Khoa học viện
(nay gọi là Viện hàn lâm khoa học Pháp)
- Académie des inscriptions et belles-lettres:
Bi ký mỹ văn học viện ( = Viện hàn lâm
Bi ký và Mỹ văn)
- Académie des sciences morales et politiques:
Luân lý chính trị học viện
- Académie des beaux-arts: Mỹ thuật viện
(có thể gọi là Viện hàn lâm nghệ thuật)
- Académie de médecine; Y khoa học viện
(có thể gọi là Viện hàn lâm Y học)
- Académie d’agriculture: Nông phố học viện.(có
thể gọi là Viện hàn lâm nông học)
(Bên cạnh
tên của các viện này đều có chữ Hán, chúng tôi xin lược bớt – LMC)
Tất cả các
nghĩa 1, 2, 3, 4 đều được ghi trong từ
điển Petit Larousse – cuốn từ điển
Pháp ngữ rất thông dụng của người Pháp. Học giả Đào Duy Anh đã nêu đầy đủ các
ngh9ĩa và đã dịch đúng.
Pháp – Việt từ điển được biên soạn trước
năm 1936, khi mà chữ quốc ngữ mới được sử dụng rộng rãi trong vài chục năm nên
còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cách diễn đạt trong Hán ngữ. Trong 4 nghĩa trên
đây thì nghĩa thứ hai là thông dụng nhất, có thể dịch sang tiếng Việt hiện nay
bằng các cụm từ: Hội học thuật quốc gia;
Viện hàn-lâm; Viện nghiên cứu; Học viện; Học hiệu, Trường đại học ...
Chúng ta
nhận thấy rằng, chỉ trong ví dụ đầu tiên thì chữ Académie mới được soạn giả gọi là Viện hàn lâm, còn trong các trường hợp
khác thì được gọi là Viện hoặc Học viện. Nghĩa là, chỉ riêng Académie cao cấp nhất, có uy tín nhất,
“danh giá” nhất thì cụ Đào Duy Anh mới gọi là Viện hàn lâm, một tên gọi mang
tính tôn nghiêm, trịnh trọng, còn các Académie khác ở cấp thấp hơn thì gọi là
viện, học viện. Nghĩa là, phải biết về hoạt động và danh giá của từng Académie
cụ thể để tìm cho nó một nghĩa tiếng Việt
thích đáng. Người dịch phải có kiến thức và có trách nhiệm cao thì mới
cân nhắc như thế.
Theo Từ
điển Pháp – Việt của Viện khoa học xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế chủ biên
thì từ Académie được dịch sang tiếng
Việt như sau; 1. viện hàn lâm; 2. hội (văn học nghệ thuật); 3.
học viện. Académie militaire Học viện
quân sự; 4. khu giáo dục (Pháp): Académie
de Nancy khu giáo dục Năng-xi; 5. (họa) hình nghiên cứu khỏa thân. Như vậy
là, ở đây thiếu hẳn nghĩa 1 và nghĩa 3 trong
từ điển của Đào Duy Anh. Tuy nhiên, đó là những nghĩa rất ít gặp.
Chữ Academy
trong tiếng Anh và chữ Akademiya trong tiếng Nga đều có các
nghĩa 1, 2 và 3 như trong Từ điển của cụ Đào Duy Anh, nhưng không thấy nêu nghĩa thứ
4.
Ở Liên Xô
trước đây và ở Liên bang Nga hiện nay,
có khá nhiều trường đại học được gọi là Akademiya, ví dụ, Военно-воздущая
академия = Đại học Không quân, Военно-медицинская академия = Đại học quân y;
Академия общественных наук = Học viện khoa học xã hội (chính là trường đảng của Liên xô, nhưng các học viên người Việt vẫn gọi
là Viện hàn lâm khoa học xã hội).
Mặc dầu các quyển từ điển Pháp –Việt và Anh – Việt đều nêu nhiều nghĩa cho các chữ Académie,
Academy để giúp người dịch lựa chọn trong từng trường hợp khi dịch sang tiếng Việt,
nhưng trên sách báo ở Việt Nam từ nhiều chục năm nay, dường như tất cả các chữ này (cùng các chữ tương ứng trong các thứ tiếng
khác) đều được dịch thành “viện hàn lâm”. Các sinh viên và nghiên cứu sinh Việt
Nam học tại các trường của Liên Xô có
tên trong các ví dụ vừa kể đều gọi các trường ấy là “viện hàn lâm”, như Viện
hàn lâm không quân, Viện hàn lâm quân y, Viện hàn lâm khoa học xã hội. Gọi như
thế là sai, vì Akademiya ở đây có
nghĩa là trường học
Ở Anh,
chữ Academy ít khi được dùng để đặt
tên cho các viện nghiên cứu hoặc các trường học. Thế nhưng ở Việt Nam hiện nay
có một số trường mang tên bằng tiếng Anh có chữ đó, ví dụ: Hanoi Academy (không thấy tên bằng tiếng
Việt, và tôi cũng chưa biết dó là trường gì), Academy of Finance (Học viện Tài chính), Ho
Chi Minh National Academy of Politics and Public Administration (Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Phải chăng, đó là sự bắt chước từ tiếng Nga?
Hiện
nay, người Việt Nam vẫn thường nói đến
Viện hàn lâm. Nhưng, ở Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Macao thì các viện
nghiên cứu lớn nhất hoặc các Academy nổi tiếng trên thế giới đều
được dịch sang Hán ngữ là Viện, Học viện,
Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật....chứ không bao giờ gọi là
Hàn lâm viện. Ví dụ, Académie franaise được gọi là Pháp-lan-tây học thuật viện, tức là Viện học
thuật Pháp; Russian Academy of Sciences mà ta gọi là Viện hàn lâm khoa học Nga,
thì người Trung quốc gọi là Nga-la-tư khoa học viện, tức là Viện khoa học Nga
Chữ
Academy (Académie, Akademiya.....) được dịch sang tiếng Việt là Viện hàn lâm
hay Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện
học thuật, Hội học thuật.... là do sự cân nhắc
của người dịch. Uy tín của mỗi Viện không phụ thuộc vào chữ Academy mà
là do những thành tựu của nó trong quá khứ và hiện tại tạo nên. Ở nước Anh, cơ
quan khoa học sang trọng nhất, danh tiếng vào bậc nhất thế giới, được thành lập
từ năm 1660, có tên là Royal Society = Hội Hoàng gia, để cho rõ hơn một chút, ta có thể dịch
là Học hội Hoàng gia . Cái tên đầy đủ của nó thì lại càng “bình dân” hơn
nữa: The Royal Society of London for Improving Natural Knowledge = Hội
Hoàng gia Luân Đôn nhằm cải tiến tri thức tự nhiên. Trong khi đó, British
Academy, tưởng như là cơ quan học thuật cao nhất lại là một viện về khoa học xã hội và nhân
văn, được thành lập năm 1902, ít danh tiếng hơn rất nhiều. Hiện nay ở nước ta hầu
như chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được đồng nhất hóa với Viện
hàn lâm và mặc nhiên trở nên hết sức khả kính, rất ít khi người ta để ý đến thực chất của nó trong từng
trường hợp cụ thể.
3. Viện hàn lâm Pháp
Tầng lớp thanh niên trí thức Việt Nam hồi đầu thế
kỷ 20 luôn luôn giàu lòng yêu nước và có hoài bão chống thực dân Pháp để giành
độc lập cho nước nhà. Nhưng họ luôn luôn trân trọng, thậm chí, say mê những giá
trị cao đẹp của nền văn hóa Pháp, với nhiều danh nhân có tên tuổi lẫy lừng, cống
hiến rất nhiều cho nền văn minh của nhân loại. Tôi được biết và tin điều đó từ
khi còn rất nhỏ do nghe lỏm các cuộc trò chuyện giữa cụ thân sinh và các bạn học
của ông – những người đã tốt nghiệp Cao đẳng Đông Dương (École
des Hautes Études Indochinoises), đồng môn và cùng lứa với các liệt sĩ
cách mang Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính.
Ở Pháp có một tổ chức học thuật có tên
là Institut de France (Hiệp hội học
thuật Pháp), được thành lập năm 1795, gồm
5 Viện (Académie) trong số 7 viện
mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến ở mục từ Académie trong quyển Pháp – Việt từ điển của ông. Đó là:
Académie
franaise = Viện
Hàn lâm Pháp, thành lập năm 1635
Académie
des sciences = Viện Khoa học (tự nhiên) Pháp, thành lập năm 1666
Académie
des inscriptions et belles-lettre = Viện Bi ký và Mỹ văn, thành lập năm1663
Académie
des sciences morales et politiques = Viện Luân lý và Chính trị,
thành lập năm 1785
Académie
des beaux-arts = Viện Mỹ thuật, thành lập năm 1815.
Trong số 5
viện này, Académie franaise – Viện hàn lâm
Pháp (ở Trung Quốc người ta gọi là Viện học thuật Pháp) được thành lập sớm nhất,
quan trọng và “danh giá“ hơn hẳn các viện khác.
Do Hồng y Giáo chủ Richelieu thành lập năm 1635 dưới thời
vua Louis XIII, Viện hàn lâm Pháp được giao nhiệm vụ trước tiên là tiêu chuẩn hóa
và hoàn thiện ngôn ngữ Pháp, xây dựng những quy tắc ngữ pháp làm cho tiếng Pháp
càng thêm trong sáng và dễ hiểu. Trên tinh thần đó, Viện này bắt đầu biên soạn
một bộ từ điển có tên là Dictionnaire de l’Académie française (Từ điển của Viện
hàn lâm Pháp) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694, sau đó, không ngừng được bổ
sung và cải tiến. Lần xuất bản thứ 8 diễn ra trong những năm 1933 - 1935. Hiện
nay, lần xuất bản thứ 9 đã in được 3 tập, còn thiếu tập 4. Hàng năm, Viện tổ chức nhiều cuộc hội thảo giới thiệu các tác phẩm,
xét duyệt và trao tặng các giải thưởng
cho các công trình khoa học có giá trị lớn.
Viện Hàn lâm Pháp gồm 40 “ghế
bành” (fauteuil), tập hợp những nhân vật nổi tiếng trong đời sống văn học (thơ
ca, tiểu thuyết, kịch nghệ, phê bình), các nhà triết học, các nhà sử học cùng
các nhà khoa học tự nhiên. Ngoài ra, nò
còn thu hút các tướng lĩnh, các chính khách, các chức sắc tôn giáo nổi tiếng.
Phải là tác giả của những tác phẩm lớn để
lại cho đời sau thì mới được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp và được “giữ ghế” suốt đời
(trừ khi có hành vi bất chính). Họ được gọi là những người bất tử (immortels) của
nước Pháp, và đương nhiên, đều là công
dân Pháp. Mỗi khi có một viện sĩ (académicien) qua đời thì Viện sẽ bầu một viện
sĩ mới để thay vào chỗ trống. Nhà tư tưởng vĩ đại Montesquieu, các đại văn hào
Voltaire, Victor Hugo, Alexandre Dumas
(con), các
nhà toán học Joseph Fourier và Jean le Rond d'Alembert, nhà bác học Louis Pasteur, v.v. là những tên tuổi sáng ngời đã được bầu
vào Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1855, người
ta đã đặt thêm chiếc “ghế bành thứ 41” (tượng trưng) dành cho những con người
đúng là “bất tử” nhưng suốt đời không
bao giờ có dịp bước vào cửa của Viện hàm lâm Pháp. Trong số đó, cần phải kể đến
những tên tuổi quen thuộc với độc giả Việt Nam như Descartes,
Molière, Pascal,
Rousseau, Diderot,
Balzac, Dumas
(cha), Stendhal,
Maupassant, Baudelaire, Zola,
Daudet,
Proust, v.v.
Trong lịch
sử của Viện Hàn lâm Pháp, đã có những viện sĩ bị phế truất vì có hành vi bất chính.
Viện
sĩ Hàn lâm Pháp được bầu gần đây nhất là ông Jules Alphonse Nicolas Hoffmann (viết gọn là
Jules Hoffmann), một nhà sinh vật học gốc Luxembourg, được
trao tặng giải thưởng Nobel về Sinh lý học và Y học năm 2011 cùng với Bruce Alan Butler (Mỹ) và Ralph
Marvin Steinman (Canada). Ông sinh năm 1941, là viện sĩ của Viện HL khoa học
Pháp (Académie des sciences) từ năm 1992, chủ tịch của Viện này trong những
năm 2007 – 2008, trở thành Viện sĩ thứ
726 (trên thực tế là thứ 722 vì có 4 viện sĩ đã bị phế truất, trong đó
có Henri Philippe Pétain, vốn
là anh hùng dân tộc của Pháp trong Đại chiến I nhưng phạm tội phản quốc trong Đại
chiến II) của
Viện Hàn lâm Pháp từ ngày 01/3/2012.
Trong những năm cuối thế kỷ 20,
có một Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp khá quen thuộc với khán giả truyền hình Việt
Nam. Đó là ông Jacques-Yves Cousteau (1910 – 1997), nhà thám hiểm hải dương học huyền thoại,
cũng là người sáng chế những bộ áo lặn và thiết bị lặn hiện đại đắc dụng nhất,
đồng thời là tác giả của nhiều bộ phim
và nhiều quyển sách kỳ thú về thế giới sinh vật dưới đáy biển. Ông được bầu làm
viện sĩ Viện hàn lâm Pháp ngày
24/11/1988.
Viện
Hàn lâm Pháp không phải là một cơ quan nghiên cứu khoa học, mà là
“ngôi đền” tôn vinh các nhà khoa học,
các nhà văn hóa đã đạt những thành tựu to lớn có ảnh hưởng lâu dài ở trong và
ngoài nước Pháp. Đây cũng là tổ chức có
uy tín nhất có tác dụng khuyến khích, biểu
dương kịp thời những công trình khoa học, văn học và những tài năng mới xuất hiện,
bằng những hoạt động như hội thảo, giới thiệu, xuất bản các tác phẩm. Việc hoàn
thiện ngữ pháp và từ điển tiếng Pháp được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
và thường xuyên. Đó là một điều khiến chúng
ta rất đáng suy nghĩ.
Ở Pháp, ngoài 7 cơ quan có tên là
Académie... mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến, còn có một số cơ quan nữa
cũng được gọi là Académie. Nếu tất cả
các Académie ở Pháp không phải là trường
học (mà là các viện) đều được gọi là Viện hàn lâm thì nước Pháp có chừng một chục
Viện hàn lâm, trong số đó, Viện hàn lâm Pháp, tức Académie franaise là lâu đời nhất,
danh giá nhất, được ngưỡng mộ nhất, ai cũng biết. Mọi người chỉ cần gọi
nó là l’Académie (nghĩa là Viện hàn lâm, không cần có chữ franaise nghĩa là của nước Pháp), giống như ở Việt Nam người ta nói đại hội Đảng có nghĩa là đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam .Nhưng khi nói đến một Viện hàn
lâm khác thì nhất thiết phải gọi đầy đủ
tên của nó.
4. Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô, Viện hàn lâm khoa học Nga
Viện
Hàn lâm khoa học Liên Xô tồn tại từ năm 1925 đến năm 1991, là cơ
quan nghiên cứu khoa học cao nhất của
Liên Xô, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, có tên theo tiếng Nga là
Академия наук СССР, tên tiếng Anh là USSR Academy of Sciences. Tiền thân của nó
là Viện hàn lâm khoa học Nga, do Pyotr Đại đế thành lập năm 1724 tại Saint
Petersburg theo khuôn mẫu của Tây Âu (gần giống như Académie des sciences
của Pháp ở Paris) nhưng phụ thuộc nhà nước nhiều hơn. Trong
thời gian 1917 – 1925, có 69 viện sĩ. Sau khi chuyển thành Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô, nó được tổ chức lại theo mô hình mới hoàn toàn và có quy mô
càng ngày càng to lớn. Năm 1934, chuyển trú sở từ Petrograd về Moskva. Lúc này,
có 80 viện chuyên ngành, với khoảng 2000 nghiên cứu viên. Đến năm 1940, các con
số đó đã tăng gấp đôi. Năm 1936 có 98 viện
sĩ (akademik). Năm 1985, có 330 cơ quan khoa học, với 57 ngàn cán bộ nghiên cứu,
một nửa trong số đó là tiến sĩ và phó tiến
sĩ (mà ở Việt Nam đã được nâng bậc thành tiến sĩ). Năm 1989 có 323 viện sĩ, 586 thành viên thông
tấn, 138 thành viên nước ngoài.
Viện hàn lâm khoa học Liên Xô là viện lớn
nhất và “danh giá” nhất ở Liên Xô, bên cạnh
nó còn có một số Viện hàn lâm chuyên ngành về kiến trúc, y học, nông nghiệp, sư
phạm, nghệ thuật, v.v. Ngoài ra mỗi nước cộng hòa xô viết đều có một Viện hàn
lâm khoa học, khiến tổng số các Viện hàn lâm ở Liên xô lên đến nhiều chục. Các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng
thành lập các viện hàn lâm khoa học theo mô hình của Liên Xô.
Ngày 21/11/1991, Tổng thống Liên bang Nga ký sắc lệnh tái lập Viện hàn
lâm khoa học Nga với tư cách là cơ quan thừa kế hoàn toàn của Viện hàn lâm
khoa học Liên Xô.. Cơ cấu tổ chức từ thời Liên Xô vẫn được giữ nguyên. Hiện
nay, Viện hàn lâm khoa học Nga có 3 chi nhánh (ở Siberia, ở Ural và ở Viễn
đông.) và 15 trung tâm ở các vùng. Đến
cuối năm 2011, Viện hàn lâm khoa học Nga có 531 viện sĩ (akademik) và 769 thành
viên thông tấn.
Trong những năm 50 – 60 của thế kỷ trước, những người thuộc
thế hệ Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính vẫn chưa già lắm, chỉ mới trên dưới 60 tuổi. Họ
cùng với những thanh niên học sinh thuộc lớp con cái của mình được nghe rất nhiều điều kỳ diệu về một nền khoa học đang
phát triển rực rỡ ở Liên bang Xô-viết mà
trụ cột của nó là Viện hàn lâm khoa học
Liên Xô. Những thành tựu khoa học vĩ đại có thật của nó, như việc chế tạo
vũ khí nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo và
con tàu vũ trụ đã khiến cả thế giới phải khâm phục.
Mặt khác, đã xẩy ra rất nhiều sự việc tệ
hại liên quan đến Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Điển hình nhất là sự tác oai
tác quái của Trofim Denisovich Lysenko
(1898 –
1976), kẻ khởi xướng một khuynh hướng khoa học giả hiệu trong sinh vật học và khống chế khoa học nông
nghiệp ở Liên Xô từ khoảng năm 1935 đến 1960. Ông ta đã dùng quyền lực chính trị
để giết hại nhiều nhà bác học có ý kiến khác mình, bắt bớ và giam cầm khiến họ
bị chết trong tù, ví duj như Nikolai Ivanovich Vavilov (1887 – 1943),
nhà di truyền học xuất sắc nhất của Liên Xô đã bị bắt giam năm 1940 và chết
trong nhà tù ở Saratov ngày 26/01/1943 vì thiếu dinh dưỡng.
【Theo
website peoples.ru bằng tiếng Nga chuyên giới thiệu tiểu sử các nhân vật
nổi tiếng, tại trang http://www.peoples.ru/science/botany/vavilov/index.html
ghi tiểu sử của N.I. Vavilov thì nhà bác học này bị tuyên án tử hình ngày
09/7/1941 cùng với nhiều người khác nhưng đến ngày hành quyết là 28/7/1941 thì một mình ông đươc hoãn lại,
và đến ngày 23/6/1942, được giảm mức án xuống 20 năm tù, nhưng chỉ nửa năm sau
đó thì ông qua đời. Sergei Pavlovich Korolev (.1907 – 1966), tác giả của
tên lửa vũ trụ Xô-viết cũng phải ở tù từ ngáy 22/6/1938 đến ngày 27/6/1944.】
Tuy
nhiên,những sự thật đen tối như vậy đã được giữ kín, chỉ những người thân của các
nạn nhân mới biết nên hầu như không ảnh hưởng đến uy tín của Viện Hàn lâm khoa
học Liên Xô.trong lòng nhân dân Việt Nam.
II.
Về tên gọi
“Viện sĩ”
1.
Thế nào là Viện sĩ ?
Câu hỏi này tưởng như là do một kẻ dốt đặc nêu ra, nhưng không hẳn
như thế.
Theo Từ
điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì, viện sĩ là thành viên viện hàn lâm (thường là viện hàn lâm khoa học).
Định nghĩa
như vậy, tưởng như không có gì sai, nhưng thực ra thì chưa ổn.
Trong một
Viện hàn lâm thì các Viện sĩ phải là những người quyết định các vấn đề khoa học
thuộc chương trình hành động của Viện. Đành rằng, trong Viện hàn lâm
cũng có ông chủ tịch và các ông trưởng ban nọ, trưởng bộ phận kia, nhưng đó chỉ
là những chức vụ về tổ chức chứ không có
ý nghĩa quyết định trong các vấn đề khoa học. Trong khoa học, ông chủ tịch Viện
hàn lâm cũng là một Viện sĩ, lá phiếu của ông ta không thể có “trọng lượng” hơn
lá phiếu của các Viện sĩ khác. Những người chỉ được tham dự một số
công việc của Viện hàn lâm thì không thể gọi là Viện sĩ. Các viện nghiên
cứu của nước ngoài mà tiếng Việt hiện nay gọi là Viện hàn lâm đều mang các chữ
Academy, Académie, và Akademiya trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga. Các
thành viên trụ cột của các viện nghiên cứu
ấy ở Anh, Pháp và Nga được gọi là
Acadenician, Académicien, Akademik mới đích xác là viện sĩ. Ở một số
Viện hàn lâm của các nước châu Âu, nhiều khi còn có các thành viên ở ngạch
thấp hơn, không được tham dự những cuộc họp quan trọng, thường chỉ có quyền dự
thính chứ không có quyên bỏ phiếu trong các cuộc họp. Những thành viên này
không mang danh hiệu Académicien (hay
Academician, Akademik), họ không và có
tư cách của viện sĩ.
Sau đây, tôi xin viện dẫn mục Члены РАН trong bài Росси́йская акаде́мия нау́к (Viện hàn lâm khoa học Nga) tại từ điển Wikipedia tiếng Nga
(mà mọi người sử dụng Internet đều rất dễ tìm thấy) để diễn giải về các ngạch
thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga.. Đó cũng là quy định của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
trước kia.
.
Члены РАН
Членами Российской академии наук
являются действительные члены РАН (академики) и члены-корреспонденты РАН. Главная обязанность
членов Российской академии наук состоит в том, чтобы обогащать науку новыми
достижениями. Члены РАН избираются общим собранием академии. Членами Российской
академии наук избираются учёные, являющиеся гражданами Российской Федерации. Члены
Российской академии наук избираются пожизненно. Действительными членами РАН избираются
учёные, обогатившие науку трудами первостепенного научного значения. Членами-корреспондентами РАН
избираются учёные, обогатившие науку выдающимися научными трудами.
По состоянию на 23 декабря 2011 года
среди членов РАН были 531 академик и 769 членов-корреспондентов.
(Последнее изменение этой страницы: 15:35, 22
сентября 2012)
Xin đổi chữ РАН (Росси́йская акаде́мия нау́к) nghĩa là Viện hàn lâm KH Nga
thành chữ RAS (Russian Academy of
Siences) và chuyển đoạn văn trên đây sang tiếng Việt, như sau:
Các
thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga
Các thành
viên của Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS) gồm có các thành viên chính thức (các
viện sĩ - akademiki) và các thành viên thông tấn. Trách nhiệm chủ yếu của các
thành viên RAS là phải đóng góp cho khoa học bằng những thành tựu mới. Hội nghị
toàn thể của Viện hàn lâm bầu ra các thành viên của Viện. Các nhà bác học được bầu làm thành
viên RAS phải là công dân của Liên bang Nga. Các thành viên RAS được bầu suốt
đời. Các nhà bác học đã hoàn thành những công trình có ý nghĩa khoa học hàng đầu để cống hiến cho
khoa học thì được bầu làm thành viên
chính thức (trở thành viện sĩ). Các nhà bác học đã góp những công trình khoa học
xuất sắc cống hiến cho khoa học
thì được bầu làm thành viên thông tấn.
Theo
tình trạng đến ngày 23/12/2011, trong số các thành viên của RAS đã có 531 viện
sĩ và 679 thành viên thông tấn (LMC
dịch)
Như vậy, theo từ điển Wikipedia tiếng Nga thì Viện hàn lâm khoa học Nga có hai ngạch thành viên. Thứ nhất là thành
viên chính thức (действительные
член, dịch thật sát nghĩa thì gọi là thành viên thực nhiệm), là
akademik, là viện sĩ. Thứ hai là thành
viên thông tấn (член-корреспондент), có tư cách thành viên thấp hơn, không phải
là thành viên chính thức, không được gọi là viện sĩ .Phải gọi họ là những thành viên thông tấn chứ
không thể gọi là viện sĩ thông tấn, bởi vì họ không phải là những “akademik”. Danh hiệu “viện sĩ” (akademịk) chỉ
được sử dụng cho các thành viên chính thức,
tức là những thành v iên cao cấp nhất.
Còn một ngạch thành viên nữa nhưng không được
nhắc đến trong văn bản tiếng Nga này,
đó là thành viên nước ngoài hay thành viên ngoại tịch, tiếng Nga là иностранный член, mà ở nước ta đã có 5
người được nhận danh hiệu này, người ta vẫn gọi họ là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa
học Nga (hoặc Liên Xô). Gọi như vậy là không đúng. Phải chăng, đây là ngạch
thành viên thứ yếu, có tính chất hình thức, lễ nghi, không quan trọng, không có
giá trị khoa học cho nên từ điển Wikipedia tiếng Nga đã
bỏ qua? Quả thật, khó mà có cách giải thích khác hơn. Tuy thế, nó vẫn được nhắc
đến trong văn bản tiếng Anh tương ứng
trên Wikipedia (dành cho đông đảo độc giả trên thế giới), như sau:
Membership
There are three types of membership in the RAS: full members (academicians), corresponding members and foreign members. Academicians and corresponding members must be citizens of the Russian Federation when elected. However, some academicians and corresponding members had been elected before the collapse of the USSR and are now citizens of other countries. Members of RAS are elected based on their scientific contributions - election to membership is considered very prestigious. As of 2005-2007 there are just under 500 full members in the academy and a similar number of corresponding members.
(Nguồn: mục Membership trong bài Russian Academy of Sciences,
Wikipedia tiếng Anh)
Dịch sang tiếng Việt:
Tư
cách thành viên (của Viện hàn lâm
khoa học Nga)
Có ba ngạch tư cách thành viên trong Viện
hàn lâm khoa học Nga: thành viên có tư cách đầy đủ, tức là thành viên chính
thức, là viện sĩ (academician), thành
viên thông tấn (corresponding member) và thành viên nước ngoài
(foreign member). Các viện sĩ và các thành viên thông tấn phải là công dân của Liên bang Nga khi được bầu. Tuy vậy, một số
viện sĩ và thành viên thông tấn đã được bầu trước khi Liên Xô sụp đổ, hiện
nay là công dân mới của các nước khác.
Các thành viên của RAS được bầu dựa trên những cống hiến khoa học của họ, người
được bầu làm thành viên được coi là rất
có danh giá. Trong những năm 2005 – 2007, ở Viện hàn lâm khoa học Nga có gần 500 thành viên chính thức (có tư cách đầy đủ tức là viện sĩ) và khoảng
ngần ấy thành viên thông tấn (LMC dịch).
Tuy
website chính thức của Viện hàn lâm khoa
học Nga không nhắc đến ngạch thành viên nươc ngoài, coi như nó không
tồn tại. Nhưng, ở bài viết về Viện
hàn lâm khoa học Nga trong từ điển
Wikipedia tiếng Ạnh thì có nhắc đến một chút. Điều đó chứng tỏ rằng, đối với Viện
hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô), thành viên nước ngoài (иностранный
член, foreign member) chỉ là thành viên hình thức, có ý nghĩa hết sức phù
phiếm, mờ nhạt, đương nhiên không thể là
viện sĩ. Chưa cần xét đến thành tích và uy tín trong khoa học của từng thành
viên loại nầy, chỉ riêng vấn đề quốc tịch đã không cho phép người nước ngoài trở
thành viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên xô). Thành viên thông tấn
(члены-корреспондент, corresponding member) của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga) có tư cách thành viên thấp hơn viện
sĩ, đương nhiên, họ không phải là viện sĩ nhưng có thể coi như những bậc đàn em
bên cạnh các viện sĩ..
Viện hàn
lâm Pháp (Académie franaise) vốn là ”ngôi đền” để tôn vinh các vĩ nhân của nước
Pháp cho nên chỉ có ngạch thành viên chính thức tức là các viện sĩ chứ không có
các ngạch thấp hơn. Nhưng ở các Viện hàn
lâm khác thì thường vẫn có vài ngạch thành viên, trong đó, ngạch cao nhất là
thành viên chính thức, tiếng Pháp gọi là membre titulaire (nhưng người
ta thường viết là membre mà không cần có
chữ titulaire) mới là viện sĩ (tức là académicien)
Hai tiếng
“viện sĩ” hiện nay nghe rất quen tai nhưng hình như cũng mới xuất hiện ở Việt
Nam chừng nửa thế kỷ. Trong quyển Hán- Việt
từ điển của Đào Duy Anh không có từ này. Giở quyển Pháp – Việt từ điển, xem chữ Académicien, thấy cụ Đào viết: Académicien:
1. Nhà triết học về phái Platon; 2. Hội
viên của Quốc gia học hội ,; hội viên
tòa Hàn lâm nước Pháp. Lại xem
tiếp các quyển từ điển Pháp – Việt và Việt
– Pháp của Đào Văn Tập hay của Đào Đăng
Vĩ in ở Sài Gòn hồi những năm 50 – 60 của
thế kỷ trước, cũng không thể tìm thấy chữ
“viện sĩ”.
Giở mấy quyển từ điển của Trung Quốc hiện có trên giá
sách của tôi như Cổ kim Hán ngữ từ điển, Cổ
kim Hán ngữ thực dụng từ điển hay Tân
hiện đại Hán ngữ từ điển (kiêm tác
Anh-Hán từ điển) thì thấy quyển nào
cũng có từ “viện sĩ”, với lời diễn giải
giống nhau. Quyển Tân hiện đại...viết: 院士(viện sĩ): academician; nhân viên nghiên cứu cao cấp nhất của các bộ phận thuộc viện khoa học ở
một số quốc gia. Định nghĩa như vậy là chặt chẽ và chính xác.
Tiếp tục
tìm hiểu thêm thì biết rằng, ở Trung Quốc lâu nay không hề sử dụng tên gọi “viện
hàn lâm” để chỉ các viện khoa học, nhưng
họ vẫn có các viện sĩ. Hiện tại, ở nước này có hai loại viện sĩ có uy vọng
ngang nhau, đó là: Viện sĩ Viện khoa học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences, CAS)và Viện sĩ Viện công trình Trung Quốc
(Chinese Academy of Engineering, CAE), gọi tắt là Viện sĩ Trung khoa viện và Viện
sĩ Trung công viện. Người Trung Hoa bắt đầu sử dụng từ “viện sĩ”
từ tháng 3 năm 1948, Khi đó, lần đầu tiên, từ Viện sĩ: được sử dụng để gọi
các nghiên cứu viên cao cấp nhất của Viện
nghiên cứu Trung ương (tức Trung ương nghiên cứu viện中央研究院, Academia Sinica, gọi tắt là Trung nghiên viện), cơ
quan nghiên cứu học thuật cao nhất của chính quyền Trung Hoa dân quốc.
2.
Tên gọi “Viện sĩ” phải đi kèm với tên của Viện hàn lâm
(hay Viện nghiên cứu)
Như quý vị độc giả đã thấy,
nước Pháp có chừng một chục viện học thuật được gọi là Académie..., tức là có chừng một chục viện hàn lâm khác nhau, không
thể lẫn lộn. Do đó, không thể có một ngạch
viện sĩ chung chung, mà phải phân biệt viện sĩ của Viện hàn lâm X hay của Viện hàm lâm
Y. Ở Pháp, Académie franaise (mà ta gọi là Viện hàn lâm Pháp).là Académie nổi tiếng nhất, chỉ cần nói đến l’Académie
là người ta nghĩ ngay đến Académie franaise, cũng như ở Việt Nam hay ở Liên xô trước đây, hễ nói
đến đảng thì có nghĩa là nói đên đảng Cộng sản. Do đó, từ Académicien (hoặc Membre de l’Académie)
nghĩa là viện sĩ của một viện hàn
lâm, nhưng khi nó được sử dụng một mình
thì có nghĩa là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp (đúng như cụ Đào Duy Anh đã giảng),
cũng như ở nước ta, khi nói “ông A là ủy viên trung ương có nghĩa rằng, ông ấy là ủy viên của Ban chấp
hành trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, còn nếu là ủy viên Ban chấp hành trung
ương Hội nông dân Việt Nam hay ủy viên Ban chấp hành trung ương Mặt trận Tổ quốc
việt nam thì phải ghi thật đầy đủ, không thể gọi rút ngắn là ủy viên trung ương
được. Cũng tương tự như vậy, không thể nói bà Hillary Clinton là đảng viên, mà
phải nói rằng, bà Hillary Clinton là đảng viên của đảng Dân chủ ở Mỹ.
Ở Trung
Quốc, cả Trung khoa viện (Viện khoa học Trung Quốc) và Trung công viện
(Viện công trình Trung Quốc) đều chưa có cái nào nổi trội hơn hẳn, cho nên
không thể nói đến viện sĩ A hay viện sĩ
B, mà phải phân biệt viện sĩ
Trung khoa viện với viện sĩ Trung công viện.
Trong tiếng Nga, chữ aкадемик
(akademik, tương đương với académicien trong tiếng Pháp và academician
trong tiếng Anh) có nghĩa là thành viên chính thức của một Академия.
Cũng tương tự như ở Pháp, ở Liên Xô (và ở Nga hiện nay) có rất nhiều Академия, tức là rất nhiều Viện hàn lầm,
nhưng vì Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (nay là Viện hàn lâm khoa học Nga) quá nổi
tiếng và quen thuộc với mọi người trên đất
nước ấy, cho nên, chữ akademik mà không kèm theo định ngữ nào nữa thì có
nghĩa là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, tương tự như từ “đảng
viên” ở Việt Nam hiện nay có nghĩa là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Viện sĩ
của các viện hàn lâm khác thì phài ghi rõ là akademik của viện nào, nếu nhận là
akademik mà không có định ngữ kèm theo (khiến mọi người hiểu là viện sĩ của Viện
hàn lâm khoa học Liên xô) thì điều đó được coi là một sự gian dối.
Phải nhấn mạnh mấy chữ thành viên chính
thức là vì, ở Liên Xô trước đây và ở Nga ngày nay cũng như ở các nước khác
còn có các ngạch thành viên không chính thức của viện hàn lâm, không phải là viện
sĩ, như chúng tôi đã nói ở trên.
III.
Những nhầm lẫn tai hại trong việc sử dụng tên gọi “viện
sĩ”
1.
Sử dụng không đúng theo tập quán ngôn ngữ của mọi nước
Như
chúng tôi đã nói ở trên, Viện hàn lâm nào cũng có tên rõ ràng và viện sĩ của các Viện ấy được phân biệt với
nhau theo tên của từng Viện. Vị thế của một người mang danh hiệu viện sĩ luôn
luôn gắn liền với hình ảnh quá khứ và hiện tại của Viện mà ông ta được bầu làm
viện sĩ. Bởi vậy, khi nói đến một viện sĩ thì phải nêu rõ là viện sĩ của viện
nào, ở nước nào. Ví dụ, nhà bác học Pháp Jules
Hoffmann trong những năm 1992 –
2011 là Membre de l’Académie des sciences
(viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp), cũng đã quá sang trọng, nhưng từ ngày
01/3/2012, ông trở thành Membre de
l’Académie (mất các chữ des sciences,
nghĩa là các khoa học) tức là viện sĩ
Viện hàn lâm Pháp, đứng vào hàng “bất tử” của nước Pháp. Bây giờ, nếu ai đó không chịu bỏ bớt các chữ des sciences cho ông thì có nghĩa là đã
hạ thấp địa vị của ông. Ngược lại, giả sử trước tháng 3/2012, nếu ông Jules Hoffmann để cho anh thư ký “bỏ quên” các chữ des sciences thì điều đó đồng nghĩa với
sự dối trá.
Hàng ngày chúng ta thấy báo chí
và tivi nhắc đến viện sĩ Nguyễn, viện sĩ Trần, viện sĩ Phan, các viện sĩ
X, Y, Z, v.v. Cái danh hiệu viện sĩ ấy không xuất phát từ Việt Nam (vì nhà nước
Việt Nam chưa phong tặng danh hiệu viện sĩ cho các nghiên cứu viên cao cấp nhất
của một viện nào cả), mà là do họ mang từ
nước ngoài về, từ nhiều nước khác nhau. Vậy mà họ đều được gọi bằng cùng một
cái tên là viện sĩ. Như thế thật là không ổn. Thử hình dung một tình huống như
sau.. Có 5 ông là Phan A, Trần B, Nguyễn C, và X, Y, mỗi ông đi đến một nước.
Ông Nguyễn C sang Nga rồi gia nhập đảng Nước Nga thống nhất, ông Trần
B sang Nhật rồi vào đảng Dân chủ - Tự do (LDP), ông Phan A sang Pháp rồi gia nhập
đảng Cộng sản Pháp, các ông X và Y thì sang Mỹ, vào đảng Cộng hòa và đảng Dân
chủ. Nói tóm lại là ông nào cũng trở thành đảng viên của một đảng nào đó ở mỗi
nước. Khi về Việt Nam, tất cả các ông ấy có thể
tự xưng là đảng viên hay không?. Tuy mỗi ông đều là đảng viên của một đảng
nào đó nhưng tiếng Việt không thể chấp
nhận cách xưng hô như vậy. Các ông ấy nhất
thiết phải ghi rõ: Phan A - đảng viên đảng
Cộng sản Pháp, Nguyễn C – đảng viên đảng nước Nga thống nhất, v.v.
Đối với danh hiệu viện sĩ cũng tương tự
như vậy. Nếu quả thật các GS Phan A, GS Trần B, GS Nguyễn C ,
v.v. đã trở thành viện sĩ của các Viện
nào đó ở các nước kể trên thì họ cũng phải ghi danh vị của mình giống như mẫu
kê khai đảng tịch vừa kể. Đương nhiên là hai chữ viện sĩ không thể đứng trước họ-tên
của các ông. Chỉ khi nào ở Việt Nam có một Viện hàn lâm, hoặc một Viện nào đó rất
nổi tiếng mà toàn dân đều biết như đảng Cộng sản Việt Nam vậy, rồi nhà nước Việt
Nam ra quyết nghị phong tặng danh hiệu
viện sĩ cho họ, khi dó, các GS kia mới
đĩnh đạc ghi danh của mình là VS Phan A,
Viện sĩ Trần B, VS Nguyễn C, v.v. Cũng
xin nhắc rằng, lúc ấy các ông nên vứt
cái chữ GS đi, vì ta có đến hang trăm,
hang ngàn GS, nhưng số viện sĩ nếu có thì sẽ ít hơn rất nhiều, vì thế, VS sang
trọng hơn GS rất nhiều. Ai cũng biết rằng,
những người có chức vụ cao hoặc tước vị cao, người nào mà chẳng trải qua những chức vụ, những tước vị
thấp hơn, lẽ nào cứ phải ghi hết hoặc gần hết các chức vị ấy.. Các vị akademik ở
Nga chẳng bao giờ ghi thêm danh hiệu giáo sư cả, bởi vì ở đó có hàng vạn
giáo sư, nhưng số akademik (viện
sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô) lúc cao nhất chỉ hơn 300 người.
2. Sai lệch quá lớn giữa
danh vị thật và danh vị được quảng bá.
Báo chí
và đài phát thanh, truyền hinh ở nước ta đã từng đưa tin và nhiều lần nhắc đến
việc các giáo sư A, B, C nào đó được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên
xô (hoặc Nga). Cùng một ông, có nơi ghi là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga),
có nơi lại ghi là viện sĩ nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô
(hoặc Nga). Hiên tượng đó chứng tỏ rằng, những người đưa tin (hay cả những người
được tặng danh hiệu?) chưa hiểu quy chế về ngạch bậc đối với các thành viên của
Viện hàn lâm khoa học này. Họ tưởng rằng, thành viên của Viện hàn lâm thì ắt là
viện sĩ. Nhưng sự thực thì không phải như vậy. Chúng tôi đã nói khá kỹ về điều
này ở tiểu mục 1. của phần II trên kia.
Tra cứu
trong danh sách viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên xô và Viện hàn lâm khoa học
Nga, chúng ta không thể tìm thấy tên một người Việt Nam nào cả. Thực ra, sự tra
cứu ấy là một việc không cần làm, vì yêu
cầu về quốc tịch đã quy định không thể
có người nước ngoài trở thành viện sĩ của Viện hàn lâm này. Nhưng trong danh sách các thành viên nước
ngoài của Viện hàn lâm khoa học Nga (gồm cả từ thời Liên Xô) thì có tên 5
người Việt Nam Hiển nhiên, họ không
phải là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học
Nga (hoặc Liên Xô) như lâu nay chúng ta đã gọi nhầm, hiểu lầm. Họ là thành
viên nước ngoài của Viện hàn lâm ấy. Đối với người Nga, hình ảnh
của các thành viên này hết sức mờ nhạt, chỉ có tính chất hình thức, ngoại
giao, đến nỗi từ điển Wikipedia tiếng Nga không hề nhắc đến. Lâu nay, ở nước ta, họ vẫn tự xưng hoặc được mọi người xưng tụng là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học
Liên Xô (hoặc Nga). Bất cứ nơi nào có tên của
họ, bao giờ cũng có các chữ VS hoặc
viện sĩ đứng ở phía trước, ví dụ: VS
Nguyễn C..hoặc Viện sĩ Trần B. Viết như vậy là đã phạm hai lỗi. Thứ nhất là lỗi
về tiếng Việt, vì ở nước ta., từ “viện sĩ” chưa có nghĩa cụ thể như từ “đảng
viên” (để chỉ đảng viên của Đảng cộng sản
Việt Nam), cho nên, phải viết rõ là viện sĩ của viện gì.. Thứ hai là,
ông Nguyễn C hay ông Trần B ấy không phải
là viện sĩ Viên hàn lâm khoa học nào cả vì họ đều mang quốc tịch Việt Nam. Để
không phạm phải hai lỗi ấy thì phải viết
như sau: Nguyễn Văn X, thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học
Nga.
Trong
thời kỳ mà Liên Xô còn tồn tại, hầu hết các nước XHCN ở Đông Âu cũng đều có Viện
hàn lâm khoa học sao chép theo mẫu của Liên Xô. Bởi vậy, nếu có người Việt Nam
nào đó đã từng được báo chí trong nước gọi là viện sĩ của nước này nước nọ thì
cũng giống như trường hợp ở Liên Xô vậy..
3. Cuộc tuyên truyền rầm rộ cho một mỹ hiệu hão huyền
Đầu tháng 7/2011, hàng loạt báo chí nước ta rầm
rộ đưa tin GS Phan Huy Lê được vinh danh
là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Bản tin của Nhà xuất bản Tri thức
(ngày 11/7/20110) có tiêu đề GS Phan Huy
Lê trở thành viện sĩ Viện hàn lâm Pháp.
Trong các cuộc hội nghị và các cuộc liên hoan, ăn mừng, chúc tụng, mọi người
đều khẳng định rằng từ nay GS Phan Huy Lê đã trở thành viện sĩ
Viện hàn lâm Pháp. Lúc đó, tôi thấy nét mặt ông thật hồn nhiên đầy vẻ đắc
thắng, mãn nguyện, rạng rỡ tươi cười đón nhận mỹ hiệu cao quý ấy. Mọi người hết
sức cung kính và thán phục, cảm thấy tự
hào khi đứng trước một viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ngót năm thế kỷ vừa qua, chỉ
những đại trí thức kiệt xuất nhất của nước Pháp may ra mới được bầu làm viện sĩ
Viện hàn lâm Pháp (Membre de l’Académie franaise), và họ được gọi là những người “bất tử”
(Immortels) của nước Pháp, được dân chúng nước Pháp tôn thờ muôn đời. Thế mà từ
nay, một người Việt Nam quê ở Hà Tĩnh được
vinh dự đứng trong hàng ngũ ấy. Thật là một niềm hãnh diện ngút trời đến với mọi
người dân đất Việt.
Báo
điện tử của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16//07/2011 đã đưa tin:
Bản
tin của Đảng Cộng sản Việt Nam in đậm dòng chữ - Lần đầu tiên có một người của
ngành Khoa học xã hội Việt Nam trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp – một Viện hàn lâm có uy tín hàng đầu
trên thế giới, tiếng Pháp gọi là L’Académie
franaise. Có chỗ lại viết rằng, GS Phan Huy Lê là viện sĩ thông tấn nước ngoài của Viện
Hàn lâm văn khắc và mỹ văn (tiếng Pháp là Académie des Inscriptions et
Belles-Letres. mà cụ Đào Duy Anh dịch là Viện Bi ký và Mỹ văn). Tiếp theo, bản tin lại khẳng
định rằng ông là người đầu tiên của
ngành Khoa học xã hội Việt Nam có được vinh dự trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp, rồi GS Đinh Xuân Lâm cũng nhắc lại rằng, GS
Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp.
Giáo
sư Phan Huy Lê - Niềm tự hào của nền sử
học nước nhà
|
Cứ xem danh sách các viện sĩ Viện hàn lâm Pháp từ khi thành lập đến năm
2012 thì biết rằng, đã xẩy ra một sự nhầm lẫn nghiêm trọng và kéo dài. GS Phan
Huy Lê không có tên trong danh sách đó, và chắc chắn rằng ông không thể là Viện sĩ của Viên hàn lâm
Pháp. Nếu gọi là viện sĩ thông tấn của Viện
Bi ký và Mỹ văn (được viết bằng tiếng
Pháp là Membre correspondant) thì
cũng không đúng, vì viện này không hề có cái chức danh ấy. Ở Viện hàn lâm khoa học
Nga, sau các Viện sĩ thì có các thành viên thông tấn (члены-корреспонденты) mà phải là những người mang
quốc tịch Nga.. Để kiểm tra lại cho kỹ càng, tôi đã tìm đọc bài viết về Académie des Inscriptions et
Belles-Letres trên từ điển Wikipedia tiếng Pháp. Văn bản này được chỉnh
lý lần cuối cùng vào ngày 02/9/2012, trong đó không có một chữ nào nói đến
membre-correspondant hoặc correspondant của Viện này. Tôi lại tìm đọc Liste
des membres de l'Académie des inscriptions
et belles-lettres de l'Institut de France.tức là Danh sách các thành viện của Viện Bi ký và
Mỹ văn ở Pháp, nơi mà các báo đưa tin là GS Phan Huy Lê được bầu làm viện
sĩ thông tấn nước ngoài, nhưng vẫn không thể tìm thấy tên ông.
Theo
danh sách này, từ khi thành lập (năm 1663) đến
ngày 02/9/2012, cả thảy có 670 vị là thành viên người Pháp (viện sĩ), trong đó
có ghi rõ chức vụ, nghề nghiệp, lĩnh vực nghiên cứu, năm sinh, năm mất, năm được
bầu làm viện sĩ. Năm 2011, Viện đã bầu 3 viện sĩ là Franois Déroche (sinh năm 1954), Jean
Guilaine (sinh năm 1936) và Véroniquee
Schiltz (sinh năm 1942). Năm 2012, Viện cũng bầu 3 viện sĩ là Pierre Gros (sinh năm 1939),
Jehan Desanges (sinh năm 1929)
và Jacques Verger (sinh năm 1943). .
Bên cạnh
danh sách này, còn kèm theo danh sách Associés
(chúng tôi tạm dịch là các cộng sự viên, hay thành viên cộng sự), Associés libres (cộng sự viên tự do) và Associés étrangers (cộng sự viên nước ngoài).Tất cả
các danh sách này đều không có tên GS
Phan Huy Lê. Trong
danh sách Associés étrangers, chúng tôi thấy có tên ông Norodom
Sihamoni, đương kim Quốc vương Căm-pu-chia (sinh năm 1953, được bầu chọn từ năm 2008)
Cần nhớ rằng, từ năm 1663 đến nay, Viện này đã
4 lân thay đổi tên và 5 lần thay đổi quy chế về thành viên, trước đây có khi gồm
vài ngạch viện sĩ và vài ngạch cộng sự viên. Hiện nay, có một ngạch viện sĩ người Pháp và một ngạch thành viên cộng sự, người
nước ngoài.
Như
vây, GS Phan Huy Lê không có tên trong danh sách các viện sĩ và
các cộng sự viên (associés) của Académie
des Inscriptions et Belles –Lettres. Vì không có ngạch thành viên thông
tấn nên không có gì bám víu để từ đó có
thể cố ý dịch sai, biến ông thành viện sĩ thông tấn. rồi nhích dần lên viện sĩ.
Để tìm cho rõ danh vị của GS Phan Huy Lê trong
Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn, tôi phải
tìm website chính thức (Official
website) của viện này tại địa chí: http://www.aibl.fr/?lang=fr )
Tìm
đến trang chủ của Website này, click vào
mục MEMBRES (hoặc tìm trực tiếp tại địa chỉ:: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr thì sẽ thấy một trang nói rõ về các ngạch
thành viên, như sau:
Membres
L’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres
se compose de cinquante-cinq
académiciens de nationalité française et de quarante associés
étrangers. Elle comprend également
cinquante correspondants français et
cinquante correspondants étrangers.
L’Académie des Inscriptions et
Belles-Lettres réunit en son sein des personnalités de qualification
exceptionnelle, hautement représentatives. Les académiciens sont des savants
élus à vie par leurs pairs en raison de la qualité de leurs travaux dans les disciplines
relevant de la compétence de l’Académie (archéologie, histoire, philologie et
leurs multiples branches et spécialités), de leur puissance de travail ainsi
que de leur renommée internationaleLorsqu’un fauteuil d’académicien est déclaré
vacant par suite de décès, l’Académie décide, à la majorité des suffrages
exprimés, de l’opportunité de pourvoir à son remplacement ; si tel est le
cas, le Bureau propose une date pour
l’élection du
nouveau membre, sinon, une nouvelle délibération a lieu sur la question après
un délai de six mois. Contrairement à une règle généralement de mise dans le
monde académique, il n’y a pas d’appel à candidature à l’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres, chaque académicien ayant la liberté de proposer
un candidat dont il fait distribuer les titres et travaux. L’élection a lieu au
scrutin secret et à la majorité absolue des académiciens présents.
Les associés étrangers, élus selon le
même principe et souvent membres des Académies les plus prestigieuses de leur
pays, sont choisis parmi les maîtres les plus éminents à travers le monde.
Quant aux correspondants, ils assurent un rôle de relais de l’information
scientifique auprès de l’Académie et participent à sa vie et à ses
travaux ; choisis par les académiciens, ils constituent un vivier de
personnalités de premier plan parmi lesquelles l’Académie a pris l’habitude de
recruter souvent ses nouveaux membres. (Nguồn: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr)
Dịch sang tiếng
Việt::
Các thành viên (của Viện hàn
lâm Bi ký và Mỹ văn)
Viện
HL Bi ký và Mỹ văn gồm có 55 viện sĩ (académiciens) có quốc tịch Pháp và 40 cộng
sự viên nước ngoài. Nó còn bao gồm 50 thông tín viên (corresondants) người Pháp
và 50 thông tín viên nước ngoài.
Viện HL Bi
ký và Mỹ văn tập hợp các nhân vật đạt trình độ nghiệp vụ ngoại hạng có tính đại diên cao. Các viện sĩ là những
nhà bác học được những người đồng đẳng bầu suốt đời do phẩm chất của những công
trình của họ trong các bộ môn thuộc thẩm
quyền của Viện (khảo cổ học, lịch sử,
ngữ văn học, cùng nhiều ngành và nhiều chuyên khoa của chúng), do năng lực
làm việc và thanh danh quốc tế của họ.
Khi một
chiếc ghế bành (fauteuil) viện sĩ được tuyên bố là khuyết vì chủ nhân đã qua đời,
Viện sẽ theo đa số những ý kiến được bày
tỏ để quyết định cơ hội bổ nhiệm người thay thế; trong trường hợp đó, Văn phòng
sẽ đề nghị một ngày để bầu thành viên mới, nếu không, thì phải có một cuộc thảo
luận về vấn đề này sau thời hạn sáu tháng. Khác với quy tắc thường được áp dụng
trong giời học thuật, không có việc kêu gọi ứng cử vào Viện Bi ký và Mỹ văn, mỗi
viện sĩ được tự do đề cử một ứng cử viên, giới thiệu các chức vị và các công
trình của người ấy. Việc bầu chọn được
thực hiện bằng cách bỏ phiểu kín và theo đa số tuyệt đối của các viện sĩ có mặt.
Các cộng sự
viên nước ngoài, được bầu theo đúng nguyên tắc như vậy, và thường là viện sĩ của
các Viện có uy tín nhất ở nước họ, được chọn trong số những bậc thầy nổi tiếng
nhất trên thế giới. Còn về các thông tín viên (correspondant), họ giữ vai
trò trạm thông tin khoa học bên cạnh Viện
HL Bi ký và Mỹ văn và tham gia sinh hoạt
cùng các công việc của Viện; họ được các viện sĩ bầu chọn, họ hợp thành một nhóm nhân vật quen thuộc
hàng đầu để từ đó, Viện tuyển chọn các
thành viên mới, theo thói quen thường có. (LMC dịch)
Qua đoạn
văn trên đây, chúng ta biết rằng, các cộng sự viên nước ngoài (Associés
étrangers) là những nhà bác học lớn có tầm cỡ
ngang hàng với các viện sĩ người Pháp, nhưng họ vẫn không phải là viện
sĩ vì họ không mang quốc tịch Pháp. Còn các correspondant, phâỉ dịch chính xác là thông tín viên, hay người truyền
tin vì họ được xác định là các trạm thông tin khoa học bên cạnh Viện HL
Bi ký và Mỹ văn. So với viện sĩ, họ có cương vị thấp hơn rất nhiều, họ cũng
không được bầu suốt đời (thông tín viên Francisco Rico, người Tây Ban Nha
mà GS Phan đã thay thế, sinh năm 1942, vẫn đang sống). Họ cũng không nhất thiết
phải là những ứng cử viên sẵn có để chờ khi có viện sĩ qua đời thì sẽ được chọn
lựa. GS Phan Huy Lê được chọn làm người truyền tin nước ngoài ngày 27/5/2011 cùng với 7 người khác. Trước
đó một năm rưỡi, ngày 06/11/2009, Viện này cũng đã thay 8 người truyền tin nước ngoài và 8 người truyền tin trong nước.
Sau đây
là văn bản chình thức của Viện Hàn lâm Bi ký và Mỹ văn về việc chỉ định GS Phan Huy Lê làm
thông tín viên nước ngoài (correspondant
étranger)
Dịch sang tiếng Việt:
PHAN HUY LÊ
Hiệp sĩ Lá cọ hàn lâm
, Sinh tại Thạch –Châu (Việt
Nam), 23 tháng hai 1934
Nhà Đông phương học,
chuyên gia về lịch sử nông thôn, lịch sử văn hóa và
lịch sử
quân sự của Việt Nam, Chủ tịch Hội sử học Việt Nam.
Được chỉ định
làm thông tín viên nước ngoài (correspondant
étranger) từ ngày 27
tháng 5 năm 2011 để thay cho Francisco Rico
Ghi chú:
Hiệp sĩ lá cọ hàn lâm là danh hiệu của “Người được tặng
huân chương Văn hóa –
Giáo
dục hạng 3, hạng thấp nhất, để tặng cho
giảng viên có trên 15 tuổi nghề
Hơn
một năm qua, mọi người đã tôn xưng GS Phan Huy Lê khi thì là viện sĩ, lúc thì
là viện sĩ thông tấn Viện HL bi ký và mỹ văn Pháp. Nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều
người, trong đó GS Đinh Xuân Lâm đã nói
rằng, GS Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp, đồng nghĩa với
việc ông trở thành con người “bất tử” của nước Pháp, được người Pháp thờ phụng muôn đời. Nhưng sự thực thì GS Phan Huy Lê chỉ được Viện hàn lâm bi ký và mỹ văn chỉ định làm thông tín
viên, làm việc của một nghiên cứu viên cấp thấp.
Phải coi
việc GS Phan Huy Lê được chỉ định làm
thông tín viên của Viện HL Bi ký và Mỹ văn là một vinh dự và may mắn lớn
đối với ông. Tuy thế, đó vẫn là một việc rất rất nhỏ, chưa đáng để cho báo chí ở
Pháp đưa tin, chỉ có các bản tin tiếng Việt phóng đại quá sai mà thôi. Phải tìm
ở website của L’Académie des Inscriptions
et Belles Lettres thì mới có thể tìm thấy tin này bằng tiếng Pháp.
Sự hồn
nhiên của ông chủ tịch Hội sử học khi đón nhận những lời xưng tụng quá phóng đại
do chính ông đưa ra, thật đáng trách. Lẽ ra, vinh dự mà mình được hưởng đến đâu
thì cứ khoe đến đấy, đằng này lại khoe
quá đà, sai hẳn sự thật, để cho gần một trăm triệu người Việt Nam hiện tại (nếu
kể cả mai sau thì còn nhiều lắm) bị lấm lẫn, từ thạch anh lại tưởng là ruby thượng
hạng hoặc kim cương, để rồi khi vỡ lẽ ra
thì lại thất vọng ê chề, chán chường, bực tức rồi quay ra chửi đổng.
Trước
đây, khi một thành viên nước ngoài của
Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô) xuất hiện trên báo chí dưới danh
hiệu là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô), ví dụ, ông Nguyễn B chẳng hạn, bao giờ cũng thấy viết là
GS.VS. Nguyễn B. Viết như vậy là phạm liền mấy lỗi, như đã phân tích ở
trên. Nhưng thật khó biết đó là lỗi của
nhà báo, của biên tập viên, lỗi của nhân viên đánh máy hay là lỗi của chính ông
Nguyễn B. Riêng về GS Phan Huy Lê, người ta thấy có nhiều lần ông đã tự xưng là
GS.VS.Phan Huy Lê rồi ký tên và đóng
dấu của Hội Khoa học lịch sử.
Nói
tóm lại, GS Phan Huy Lê là thông tín viên (correspondant) của Viện
hàn lâm Bi ký và Mỹ văn (L’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres), một Viện học thuật nổi tiếng vào hạng thứ tư hoặc thứ năm ở Phá, chưa ai
dám so sánh nó với Viện hàn lâm Pháp. Ông không
hề là “viện sĩ” của một Viện nào cả, lại càng không thể là Viện sĩ Viện
hàn lâm Pháp như chính ông cùng hệ thống báo chí toàn quốc đã từng
ngộ nhận và tuyên truyền rầm rộ rồi
coi đó là một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam..
VI. Vài lời cuối
bài
Đây là
bài lược khảo về các tên gọi “viện hàn lâm” và “viện sĩ”. Nếu viết kỹ hơn thì
còn rất nhiều điều đáng nói, có cả chuyện “cười ra nước mắt” nữa. Nhưng, tác giả nghĩ rằng, ngần ấy cũng đã khá đủ để chúng ta
có những hiểu biết cơ bản về các tên gọi như viện hàn lâm và viện sĩ, académie
(hoặc academy, akademiya...) và académicien (hoặc academician, akademik...), và
cuối cùng nhận rõ không ít sai lầm tai hại trong việc sử dụng tên gọi “viện
sĩ”.
Lâu nay
ở nước ta, các tên gọi “viện hàn lâm” và
“viện sĩ” hình như có sức mê hoặc
phi thường và rất nhiều người muốn khai thác chúng một cách triệt để.
Cho nên, cứ hễ ớ đâu có Academy là lập tức
được dịch ra ngay thành Viện hàn lâm, hễ dính một chút đến một Academy nào đó
là trở thành viện sĩ, và được nhiều người
trầm trồ, thán phục. Sự ngưỡng vọng đối với viện hàn lâm và viện sĩ, có lẽ bắt
đầu thể hiện đối với Viện hàn lâm Pháp (Académie franaise) từ thế hệ cha chú chúng tôi, tiếp nữa là đối với Viện hàn lâm khoa hoc Liên Xô, bén rễ
trong lòng nhiều thế hệ trước khi Liên xô sụp đổ. Tình cảm ấy bắt nguồn từ đức
tính tốt là lòng yêu chuộng tri thức. Nhưng, khi thời thế đổi thay, thói giả dối,
bệnh ham chuộng hình thức và hư danh bao trùm lên xã hội thì đức tính tốt ấy bị lợi dụng và khai thác triệt để. Thói dối
trá đã ngấm sâu vào máu của những người đã giành được ít nhiều danh lợi, đến mức
trở thành bản năng, vô thức, tất yếu.
Khi
lương tâm và trách nhiệm công dân bắt buộc tôi phải viết vài này, nhiều khi tôi
cảm thấy thẫn thờ, chán nản. Ôi, sao lại có chuyện lạ đời như thế này? Một giáo
sư nổi tiếng bậc nhất hiện nay, thường vẫn
rao giảng về thái độ trung thực trong khoa học, về việc dấn thân để bảo vệ chân
lý khoa học, nay lại đánh lừa cả nước ngót 100 triệu người ư? Mà lại lừa rất dễ.
Ông ta đã được các cấp chính quyền cùng
toàn bộ hệ thống thông tịn tuyên truyền văn hóa giáo dục khoa học ra sức
đề cao, tâng bốc, coi như một niềm tự hào của đất nước. của dân tộc.Tôi băn
khoăn tự hỏi, trước sự việc này, ta nên cười hay nên khóc, và đối với những người
trong cuộc ấy, ta nên khinh ghét hay nên
thương hại?
Tôi rất
mong muốn nước ta có những “viện hàn lâm” (nếu
thấy cần phải gọi như thế) hoặc là một hay vài viện nghiên cứu (của nhà nước và của tư
nhân), trong đó nổi lên một viện có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển lành mạnh
của đất nước, rất nổi tiếng và toàn dân ai ai cũng biết, dù nó có tên là Viện
(hàn lâm) ABXFZ gì đó nhưng chỉ cần nói đến “Viện (hàn lâm)” là đủ biết mà
không cần nói rõ tên, giống như từ “đảng’ hiện nay vậy. Khi đó, các thành viên
trụ cột (không phải là “tứ trụ” mà có thể là “nhị thập tứ trụ” hay là “tứ thập
nhị trụ”, v.v.) được tôn xưng là Viện sĩ của viên ABXFZ, nhưng chỉ cần
xưng “Viện sĩ” là đủ.. Lúc bấy giờ, các cụ Phan A, Nguyễn B, Trần C (nếu còn sống)
sẽ được gọi là viện sĩ theo đúng nghĩa và họ tha hố vung bút thoải mái viết VS
Phan A, viện sĩ Nguyễn B mà không sợ phạm lỗi tiếng Việt. Nhưng lúc
đó phải lưu ý cấm các chú vệ sĩ không được viết tắt chữ “vệ sĩ” là VS, mà có lẽ
nên cấm ngay từ bây giờ, vì nếu không cấm thì vệ sĩ Mạnh Huỵch chẳng hạn,
lúc nào cũng có quyền giới thiệu mình là VS. Mạnh Huỵch mà không cần ai
ban phát danh hiệu và không hề phạm lỗi tiếng Việt, bởi vì vệ sĩ gần như là nghề nghiệp của ông ta,
như ta vẫn thường nói ca sĩ Hồng Nhung hay nhạc sĩ Trần Tiến vậy.
Ngoài ra, nếu Viện ABXFZ được mọi người biết đến vì nó đầy tai tiếng, lúc đó, xét về
mặt ngôn ngữ học thì viết VS Phan A
hay viện sĩ Nguyễn B cũng đều
hoàn toàn đúng, nhưng đó là cái đúng mà
chúng ta không mong muốn.
Ở nước
ta có hai Viện nghiên cứu lớn (không biết đã lớn nhất hay chưa) mà tôi khá quen
biết, đó là Viện khoa học xã hội Việt
Nam và Viện khoa học và công nghệ Việt Nam. Cả hai Viện ấy có tên bằng tiếng Anh, lần lượt là Vietnam Academy of Social siences và Viet
Nam Academy of Science and Technology (chữ Việt Nam có khi viết liền, có
khi viết rời, có khi viết Vietnamese). Vì khá nhiều người hiểu chữ Academy một
cách “hàn lâm” chứ không nghĩ rằng ngày nay nó được sử dụng khá “thông tục” nên
họ phê phán rằng, làm ăn chẳng ra gì mà
đã huyênh hoang khoác lác , dám vỗ ngực tự xưng là Academy. Theo tôi thì dịch
như vậy không sai, Viện khoa học Trung Quốc cũng có tên bằng tiếng Anh là Chinese :Academy of
Sciences cơ mà. Còn cái tên bằng tiếng Việt
thì cũng tùy các nhà lãnh đạo cao cấp định đoạt, nhưng nếu gọi là Viện hay Viện hàn lâm thì giá trị của
nó cũng không hề tăng lên hay giảm xuống. Chiếc áo không làm nên thày
tu, huống chi là một cái tên.
Với tư
cách một công dân cao tuổi, tôi viết bài lược khảo này để quý vị độc giả
và các nhà chức trách tham khảo nhằm hiểu rõ hơn về
những danh hiệu mà suốt nhiều năm qua, các cơ quan báo chí và các nhà
khoa học cùng toàn thể dân chúng đã hiểu sai, dấn đến những chuyện lố bịch,
đáng hổ thẹn. Theo những địa chỉ của các nguồn tư liệu từ Internet mà tác giả
đã sử dụng, bất cứ độc giả nào biết chữ Hán và tiếng Nga, tiếng
Anh và tiếng Pháp đều có thể kiểm
tra ngay trước màn hình của máy tính. Nếu
ai đó phát hiện thấy có sự trích dẫn sai, hiểu sai, diễn giải sai các
nguồn tư liệu ấy, thì tác giả sẵn sang chịu mọi hình thức buộc tội
nghiêm khắc nhất. Người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm trước đông đảo độc giả
và trước pháp luật về nội dung của của
toàn bài..
Bài này
đã được công bố trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển từ tháng 10
năm 2012 và vẫn lưu hành trên mạng Internet. Hẳn là nó đã khiến không ít độc giả phải ngỡ ngàng kinh ngạc.
Nhưng nó đã phản ánh đúng sự thật. Nếu tác giả phạm sai lầm nào đó thì sẽ bị
phát hiện và phản bác ngay lập tức, không phải đợi lâu. Ngoài 3 tháng sau ngày công bố mà chẳng ai
phản bác được, khiến tác giả không thể chối cãi, thì điều đó hoàn toàn có nghĩa
là, mọi độc giả, bao gồm tất cả những người có liên quan trực tiếp đến những điều
được nêu ra trong bài này, đều đã thừa
nhận sự đúng đắn và tinh thần trách nhiệm của tác giả.
Lê Mạnh Chiến
Tháng 9 năm /2012
Bó tay!
Trả lờiXóa