Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

LƯỢC KHẢO VỀ CÁC TÊN GỌI “Viện hàn lâm” và “Viện sĩ” CÙNG NHỮNG NHẦM LẪN TAI HẠI

                       Đã đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 7(96).2012
                  
                                                                       Lê Mạnh Chiến

I.               Về Viện Hàn lâm (hay  Hàn lâm viện trong  Hán ngữ)

1.    Hàn lâm viện ở Trung Hoa và ở Việt Nam thời xưa

       Theo từ điển Từ  hải, chữ  hàn (trong Hàn lâm viện ) vốn có nghĩa là một loai gà núi đẹp, gọi là cẩm kê, dịch sang tiếng Việt là “gà gấm”. Về sau, chữ hàn này còn có nghĩa là cái lông chim dài và cứng. Ngày xưa, ở châu Á cũng như ở châu Âu, người ta dùng những chiếc lông chim dài và cứng để làm bút viết, do đó, chữ hàn lại có nghĩa là cái bút, và còn có thêm vài nghĩa khác nữa. Trong từ hàn lâm翰林thì hàn nghĩa là bút, lâm nghĩa là rừng; hàn lâm có nghĩa đen là rừng bút, nghĩa bóng là văn đàn, là chốn tinh hoa về học thuật.

      Thời nhà Đường, năm Khai Nguyên thứ 26 (738), Đường Huyền Tông tuyển mộ các  triều thần “văn hay chữ tốt” để soạn thảo các chiếu chỉ, mệnh lệnh, từ  đó  sinh ra chức  quan Hàn lâm học sĩ (gọi tắt    Hàn lâm) và Hàn lâm viện, mà ngày nay chúng ta gọi là Viện hàn lâm. Thời Tống, quan Câu đương Hàn lâm viện (tức là chủ quản Hàn lâm viện) còn kiêm quản thiên văn, thư nghệ, đồ họa, y dược và cả việc bếp núc trà rượu của triều đình. Nhà Nguyên lập Hàn lâm học sĩ viện, về sau hợp với Quốc sử viện, gọi là Hàn lâm kiêm quốc sử viện. Thời Minh, Hàn lâm viện chính thức trở thành cơ quan ngoại vi của triều đình. Thời nhà Thanh, Hàn lâm viện vẫn đảm nhiệm việc biên soạn quốc sử, ghi chép lời nói và việc làm của hoàng đế, giảng kinh sử, thảo văn kiện có liên quan đến các quy định về lễ nghi.

      Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí  (phần Quan chức chí) do Phan Huy Chú biên soạn thì ở  Việt Nam, Hàn lâm viện được thành lập từ năm 1086, thời vua Lý  Nhân tông, với  Mac Hiển  Tích là vị Hàn lâm học sĩ đầu tiên. Nhà Trần đặt chức Hàn lâm phụng chỉ để soạn thảo các chiếu chỉ thay nhà vua, thường do thái sư đảm nhiệm. Nhà Lê khi mới dựng nước cũng lập ngay Hàn lâm viện, do Nguyễn Trãi làm  Hàn lâm phụng chỉ.

       Phan Thanh Giản (1796 – 1867), vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, lúc mới đỗ đạt đã từng giữ chức Hàn lâm viện biên tu rồi thăng lên chức Hàn lâm viện kiểm thảo, thời  vua Minh Mệnh .

        Nói tóm lại, dù là ở Trung  Hoa hay ở Việt Nam, Hàn lâm viện là nơi tập trung những người có học vấn cao để thực hiện những công việc liên quan đến sách vở, trứ tác.

       Từ “Hàn lâm viện” trong  Hán  ngữ được dịch sang tiếng  Latin là Academia (xuất hiện năm 1508 -  theo từ điển  Robert), tương ứng với Academy, Académie, Академия  trong các thứ tiếng Anh, Pháp và  Nga (chữ Академия  được phiên âm là Akademiya). Điều đó cũng được thể hiện trong Từ điển Annam -Latin (Dictionarium Anamitic - Latinum) của A.J.L. Taberd (in năm 1838).
    
2.    Về các chữ Académie, Academy, Akademiya (trong tiếng Pháp, Anh, và Nga,  tương ứng với Academia trong tiếng  Latin, với nghĩa là Viện học thuật )

     Trong cuốn Pháp – Việt từ điển (ra đời năm 1936) của cụ  Đào  Duy Anh, ở mục từ Académie, chúng ta thấy những lời dịch như sau: 
    1. Cái vườn mà  Platon giảng triết học ở đó, gần thành Athènes;
    2. Quốc gia học hội, bác-học-viện, hàn-lâm-viện, đại học hiệu, đai học khu.
    3. Du kỹ trường, thể dục trường, như trường kỵ mã, trường đấu kiếm; 
4. Bức họa người cổi truồng, khỏa thân họa.

Sau đó, tác giả nêu một số ví dụ:
    -.  Académie franaise: Pháp  quốc hàn lâm viện (nay ta gọi là Viện hàn lâm Pháp)
    -  Académie des sciences: Khoa học viện (nay gọi là Viện hàn lâm khoa học Pháp)
    -  Académie des inscriptions et belles-lettres: Bi ký  mỹ văn học viện ( = Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn)
    -  Académie des sciences morales et politiques:  Luân lý chính trị học viện
    -  Académie des beaux-arts: Mỹ thuật viện (có thể gọi là Viện hàn lâm nghệ thuật)
    -  Académie de médecine; Y khoa học viện (có thể gọi là Viện hàn lâm Y học)
    -  Académie d’agriculture: Nông phố học viện.(có thể gọi là Viện hàn lâm nông học)
   (Bên cạnh tên của các viện này đều có chữ Hán, chúng tôi xin lược bớt  – LMC)

     Tất cả các nghĩa  1, 2, 3, 4 đều được ghi trong từ điển Petit Larousse – cuốn từ điển Pháp ngữ rất thông dụng của người Pháp. Học giả Đào Duy Anh đã nêu đầy đủ các ngh9ĩa và đã dịch đúng.
     Pháp – Việt từ điển được biên soạn trước năm 1936, khi mà chữ quốc ngữ mới được sử dụng rộng rãi trong vài chục năm nên còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cách diễn đạt trong Hán ngữ. Trong 4 nghĩa trên đây thì nghĩa thứ hai là thông dụng nhất, có thể dịch sang tiếng Việt hiện nay bằng các cụm từ:  Hội học thuật quốc gia; Viện hàn-lâm; Viện nghiên cứu; Học viện; Học hiệu,  Trường đại học ...

      Chúng ta nhận thấy rằng, chỉ trong ví dụ đầu tiên thì chữ  Académie mới được soạn giả gọi  là Viện hàn lâm, còn trong các trường hợp khác thì được gọi là Viện hoặc Học viện. Nghĩa là, chỉ riêng Académie cao cấp nhất, có uy tín nhất, “danh giá” nhất thì cụ Đào Duy Anh mới gọi là Viện hàn lâm, một tên gọi mang tính tôn nghiêm, trịnh trọng,  còn các Académie khác ở cấp thấp hơn thì gọi là viện, học viện. Nghĩa là, phải biết về hoạt động và danh giá của từng  Académie cụ thể để tìm cho nó một nghĩa tiếng Việt  thích đáng. Người dịch phải có kiến thức và có trách nhiệm cao thì  mới  cân nhắc như thế.

   Theo Từ điển Pháp – Việt của Viện khoa học xã hội Việt Nam do Lê Khả Kế chủ biên thì từ Académie được dịch sang tiếng Việt như sau; 1. viện hàn lâm; 2. hội (văn học nghệ thuật); 3. học viện. Académie militaire Học viện quân sự;  4. khu giáo dục (Pháp): Académie de  Nancy khu giáo dục Năng-xi; 5. (họa) hình nghiên cứu khỏa thân. Như vậy là, ở đây thiếu hẳn nghĩa 1 và nghĩa 3 trong  từ điển của Đào Duy Anh. Tuy nhiên, đó là những nghĩa rất ít gặp.

      Chữ Academy trong  tiếng Anh và chữ Akademiya trong tiếng Nga đều có các nghĩa 1, 2 và 3 như trong Từ điển của cụ Đào Duy Anh, nhưng không thấy nêu   nghĩa thứ  4.

     Ở Liên Xô trước đây và ở Liên bang  Nga hiện nay, có khá nhiều trường đại học được gọi là Akademiya, ví dụ, Военно-воздущая академия = Đại học Không quân, Военно-медицинская академия = Đại học quân y; Академия общественных наук = Học viện khoa học xã hội (chính là trường đảng của  Liên xô, nhưng các học viên người Việt vẫn gọi là Viện hàn lâm khoa học xã hội).

        Mặc dầu  các quyển từ điển Pháp –Việt và  Anh – Việt đều nêu nhiều nghĩa cho các chữ  Académie, Academy  để giúp người dịch lựa chọn  trong từng trường hợp khi dịch sang tiếng Việt, nhưng trên sách báo ở Việt Nam từ nhiều chục năm nay, dường như tất cả các chữ  này (cùng các chữ tương ứng trong các thứ tiếng khác) đều được dịch thành “viện hàn lâm”. Các sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam  học tại các trường của Liên Xô có tên trong các ví dụ vừa kể đều gọi các trường ấy là “viện hàn lâm”, như Viện hàn lâm không quân, Viện hàn lâm quân y, Viện hàn lâm khoa học xã hội. Gọi như thế là sai, vì Akademiya ở đây có nghĩa là trường học

        Ở Anh, chữ Academy ít khi được dùng để đặt tên cho các viện nghiên cứu hoặc các trường học. Thế nhưng ở Việt Nam hiện nay có một số trường mang tên bằng tiếng Anh có chữ đó, ví dụ: Hanoi Academy (không thấy tên bằng tiếng Việt, và tôi cũng chưa biết dó là trường gì), Academy of Finance (Học viện Tài chính), Ho Chi Minh National Academy of Politics and Public Administration (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Phải chăng, đó là sự bắt chước từ tiếng Nga?

        Hiện nay, người Việt Nam vẫn thường  nói đến Viện hàn lâm. Nhưng, ở Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Macao thì các viện nghiên cứu lớn nhất hoặc các Academy nổi tiếng trên thế giới đều được dịch sang Hán ngữ là  Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật....chứ không bao giờ  gọi là  Hàn lâm viện. Ví dụ, Académie franaise được gọi là  Pháp-lan-tây học thuật viện, tức là Viện học thuật Pháp; Russian Academy of Sciences  mà ta gọi là Viện hàn lâm khoa học Nga, thì  người Trung quốc gọi là  Nga-la-tư khoa học viện, tức là   Viện khoa học Nga

         Chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được dịch sang tiếng Việt là Viện hàn lâm hay  Viện, Học viện, Viện nghiên cứu, Viện học thuật, Hội học thuật.... là do sự cân nhắc  của người dịch. Uy tín của mỗi Viện không phụ thuộc vào chữ Academy mà là do những thành tựu của nó trong quá khứ và hiện tại tạo nên. Ở nước Anh, cơ quan khoa học sang trọng nhất, danh tiếng vào bậc nhất thế giới, được thành lập từ năm 1660,  có tên là  Royal Society = Hội Hoàng gia, để cho rõ hơn một chút, ta có thể dịch là  Học hội Hoàng gia . Cái tên đầy  đủ của nó thì lại càng “bình dân” hơn nữa: The Royal Society of London for Improving Natural Knowledge = Hội Hoàng gia Luân Đôn nhằm cải tiến tri thức tự nhiên. Trong khi đó, British Academy, tưởng như là cơ quan học thuật cao nhất  lại là một viện về khoa học xã hội và nhân văn, được thành lập năm 1902, ít danh tiếng hơn rất nhiều. Hiện nay ở nước ta hầu như chữ Academy (Académie, Akademiya.....) được đồng nhất hóa với Viện hàn lâm và mặc nhiên trở nên hết sức khả kính, rất ít khi  người ta để ý đến thực chất của nó trong từng trường hợp cụ thể.

3.   Viện hàn lâm Pháp

      Tầng  lớp thanh niên trí thức Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20 luôn luôn giàu lòng yêu nước và có hoài bão chống thực dân Pháp để giành độc lập cho nước nhà. Nhưng họ luôn luôn trân trọng, thậm chí, say mê những giá trị cao đẹp của nền văn hóa Pháp, với nhiều danh nhân có tên tuổi lẫy lừng, cống hiến rất nhiều cho nền văn minh của nhân loại. Tôi được biết và tin điều đó từ khi còn rất nhỏ do nghe lỏm các cuộc trò chuyện giữa cụ thân sinh và các bạn học của ông – những người đã tốt nghiệp Cao đẳng Đông Dương (École des Hautes Études Indochinoises), đồng môn và cùng lứa với các liệt sĩ cách mang Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính.

       Ở Pháp có một tổ chức học thuật có tên là Institut de France (Hiệp hội học thuật Pháp), được thành lập năm 1795, gồm  5 Viện (Académie) trong số 7 viện  mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến ở mục từ Académie trong quyển Pháp – Việt từ điển của ông. Đó là:
     Académie franaise  =  Viện Hàn lâm Pháp, thành lập năm 1635
     Académie des sciences = Viện Khoa học (tự nhiên) Pháp, thành lập năm 1666
     Académie des inscriptions et belles-lettre = Viện Bi ký  và Mỹ văn, thành lập năm1663 
     Académie des sciences morales et politiques = Viện Luân lý và Chính trị, thành lập năm 1785
     Académie des beaux-arts  =  Viện Mỹ thuật, thành lập năm 1815.

      Trong số 5 viện này, Académie franaise – Viện hàn lâm Pháp (ở Trung Quốc người ta gọi là Viện  học thuật Pháp) được thành lập sớm nhất, quan trọng và “danh giá“ hơn hẳn các viện khác.

      Do Hồng y Giáo chủ  Richelieu thành lập năm 1635 dưới thời vua  Louis XIII, Viện hàn lâm Pháp được giao nhiệm vụ trước tiên là tiêu chuẩn hóa và hoàn thiện ngôn ngữ Pháp, xây dựng những quy tắc ngữ pháp làm cho tiếng Pháp càng thêm trong sáng và dễ hiểu. Trên tinh thần đó, Viện này bắt đầu biên soạn một bộ từ điển có tên là Dictionnaire de l’Académie française (Từ điển của Viện hàn lâm Pháp) xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694, sau đó, không ngừng được bổ sung và cải tiến. Lần xuất bản thứ 8 diễn ra trong những năm 1933 - 1935. Hiện nay, lần xuất bản thứ 9 đã in được 3 tập, còn thiếu  tập 4. Hàng năm, Viện tổ chức  nhiều cuộc hội thảo giới thiệu các tác phẩm, xét duyệt  và trao tặng các giải thưởng cho các công trình khoa học có giá trị lớn.

       Viện Hàn lâm Pháp gồm 40 “ghế bành” (fauteuil), tập hợp những nhân vật nổi tiếng trong đời sống văn học (thơ ca, tiểu thuyết, kịch nghệ, phê bình), các nhà triết học, các nhà sử học cùng các nhà khoa học tự nhiên. Ngoài ra,  nò còn thu hút các tướng lĩnh, các chính khách, các chức sắc tôn giáo nổi tiếng. Phải là tác giả của  những tác phẩm lớn để lại cho đời sau thì mới được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp và được “giữ ghế” suốt đời (trừ khi có hành vi bất chính). Họ được gọi là những người bất tử (immortels) của nước Pháp, và  đương nhiên, đều là công dân Pháp. Mỗi khi có một viện sĩ (académicien) qua đời thì Viện sẽ bầu một viện sĩ mới để thay vào chỗ trống. Nhà tư tưởng vĩ đại Montesquieu, các đại văn hào Voltaire, Victor Hugo, Alexandre Dumas (con), các nhà toán học Joseph Fourier và Jean le Rond d'Alembert, nhà bác học Louis Pasteur, v.v. là những tên tuổi sáng ngời đã được bầu vào  Viện Hàn lâm Pháp. Năm 1855, người ta đã đặt thêm chiếc “ghế bành thứ 41” (tượng trưng) dành cho những con người đúng là “bất tử” nhưng  suốt đời không bao giờ có dịp bước vào cửa của Viện hàm lâm Pháp. Trong số đó, cần phải kể đến những tên tuổi quen thuộc với độc giả Việt Nam như Descartes, Molière, Pascal, Rousseau, Diderot, Balzac, Dumas (cha), Stendhal, Maupassant, Baudelaire, Zola, Daudet, Proust, v.v.

       Trong lịch sử của Viện Hàn lâm Pháp, đã có những viện sĩ bị phế truất vì có hành vi  bất chính.

       Viện sĩ Hàn lâm Pháp được bầu gần đây nhất là ông Jules Alphonse Nicolas Hoffmann (viết gọn là Jules Hoffmann), một nhà sinh vật học gốc Luxembourg, được trao tặng giải thưởng Nobel về Sinh lý học và Y học năm 2011 cùng với  Bruce Alan Butler (Mỹ) và Ralph Marvin Steinman (Canada). Ông sinh năm 1941, là viện sĩ của Viện HL khoa học Pháp (Académie des sciences) từ năm 1992, chủ tịch của Viện này trong những năm  2007 – 2008, trở thành Viện sĩ thứ  726 (trên thực tế là thứ 722 vì có 4 viện sĩ đã bị phế truất, trong đó có Henri Philippe Pétain, vốn là anh hùng dân tộc của Pháp trong Đại chiến I nhưng phạm tội phản quốc trong Đại chiến II) của Viện Hàn lâm Pháp từ ngày 01/3/2012.

         Trong những năm cuối thế kỷ  20, có một Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp khá quen thuộc với khán giả truyền hình Việt Nam. Đó là ông Jacques-Yves Cousteau (1910 – 1997), nhà thám hiểm hải dương học huyền thoại, cũng là người sáng chế những bộ áo lặn và thiết bị lặn hiện đại đắc dụng nhất, đồng thời là  tác giả của nhiều bộ phim và nhiều quyển sách kỳ thú về thế giới sinh vật dưới đáy biển. Ông được bầu làm viện sĩ  Viện hàn lâm Pháp ngày 24/11/1988.

        Viện Hàn lâm Pháp không phải là một cơ quan nghiên cứu khoa học, mà là “ngôi đền” tôn vinh các  nhà khoa học, các nhà văn hóa đã đạt những thành tựu to lớn có ảnh hưởng lâu dài ở trong và ngoài nước Pháp. Đây cũng là  tổ chức có uy tín nhất có tác dụng  khuyến khích, biểu dương kịp thời những công trình khoa học, văn học và những tài năng mới xuất hiện, bằng những hoạt động như hội thảo, giới thiệu, xuất bản các tác phẩm. Việc hoàn thiện ngữ pháp và từ điển tiếng Pháp được coi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và thường xuyên. Đó là một điều khiến chúng  ta rất đáng suy nghĩ.    
          Ở Pháp, ngoài 7 cơ quan  có tên là Académie... mà học giả Đào Duy Anh đã nhắc đến, còn có một số cơ quan nữa cũng được gọi là Académie. Nếu tất cả các Académie ở Pháp không phải là trường học (mà là các viện) đều được gọi là Viện hàn lâm thì nước Pháp có chừng một chục Viện hàn lâm, trong số đó, Viện hàn lâm Pháp, tức Académie franaise là lâu đời nhất,  danh giá nhất, được ngưỡng mộ nhất, ai cũng biết. Mọi người chỉ cần gọi nó là l’Académie (nghĩa là Viện hàn lâm, không cần có chữ franaise nghĩa là của nước Pháp), giống như ở Việt Nam người ta nói đại hội Đảng  có nghĩa là đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam .Nhưng khi nói đến một Viện hàn lâm khác thì nhất thiết phải gọi đầy đủ  tên của nó.

 4. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện hàn lâm khoa học Nga

Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô tồn tại từ năm 1925 đến năm 1991, là cơ quan nghiên cứu  khoa học cao nhất của Liên Xô, trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, có tên theo tiếng  Nga là Академия наук СССР,  tên tiếng Anh là USSR Academy of Sciences. Tiền thân của nó là Viện hàn lâm khoa học Nga, do Pyotr  Đại đế thành lập năm 1724 tại Saint Petersburg theo khuôn mẫu của Tây Âu (gần giống như Académie des sciences của Pháp ở Paris) nhưng phụ thuộc nhà nước nhiều hơn.  Trong  thời gian 1917 – 1925, có 69 viện sĩ. Sau khi chuyển thành Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, nó được tổ chức lại theo mô hình mới hoàn toàn và có quy mô càng ngày càng to lớn. Năm 1934, chuyển trú sở từ Petrograd về Moskva. Lúc này, có 80 viện chuyên ngành, với khoảng 2000 nghiên cứu viên. Đến năm 1940, các con số đó đã tăng gấp đôi. Năm 1936 có  98 viện sĩ (akademik). Năm 1985, có 330 cơ quan khoa học, với 57 ngàn cán bộ nghiên cứu, một nửa  trong số đó là tiến sĩ và phó tiến sĩ (mà ở Việt Nam đã được nâng bậc thành tiến sĩ).  Năm 1989 có 323 viện sĩ, 586 thành viên thông tấn, 138 thành viên nước ngoài. 

       Viện hàn lâm khoa học Liên Xô là viện lớn nhất và “danh giá” nhất  ở Liên Xô, bên cạnh nó còn có một số Viện hàn lâm chuyên ngành về kiến trúc, y học, nông nghiệp, sư phạm, nghệ thuật,  v.v. Ngoài ra  mỗi nước cộng hòa xô viết đều có một Viện hàn lâm khoa học, khiến tổng số các Viện hàn lâm ở Liên xô lên đến nhiều chục. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu  cũng thành lập các viện hàn lâm khoa học theo mô hình  của Liên Xô.

        Ngày 21/11/1991, Tổng thống  Liên bang Nga ký sắc lệnh tái lập Viện hàn lâm khoa học Nga với tư cách là cơ quan thừa kế hoàn toàn của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.. Cơ cấu tổ chức từ thời Liên Xô vẫn được giữ nguyên. Hiện nay, Viện hàn lâm khoa học Nga có 3 chi nhánh (ở Siberia, ở Ural và ở Viễn đông.) và  15 trung tâm ở các vùng. Đến cuối năm 2011, Viện hàn lâm khoa học Nga có 531 viện sĩ (akademik) và 769 thành viên thông tấn.
       Trong những  năm 50 – 60 của thế kỷ trước, những người thuộc thế hệ Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính  vẫn chưa già lắm, chỉ mới trên dưới 60 tuổi. Họ cùng với những thanh niên học sinh thuộc lớp con cái của  mình được nghe rất  nhiều điều kỳ diệu về một nền khoa học đang phát triển rực rỡ ở Liên bang Xô-viết  mà trụ cột của nó  Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Những thành tựu khoa học vĩ đại có thật của nó, như việc chế tạo vũ khí nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo và  con tàu vũ trụ đã khiến cả thế giới phải khâm phục.

       Mặt khác, đã xẩy ra rất nhiều sự việc tệ hại liên quan đến Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Điển hình nhất là sự tác oai tác quái của Trofim Denisovich Lysenko (1898 – 1976), kẻ khởi xướng một khuynh hướng khoa học giả hiệu  trong sinh vật học và khống chế khoa học nông nghiệp ở Liên Xô từ khoảng năm 1935 đến 1960. Ông ta đã dùng quyền lực chính trị để giết hại nhiều nhà bác học có ý kiến khác mình, bắt bớ và giam cầm khiến họ bị chết trong tù, ví duj như Nikolai Ivanovich Vavilov (1887 – 1943), nhà di truyền học xuất sắc nhất của Liên Xô đã bị bắt giam năm 1940 và chết trong nhà tù ở Saratov ngày 26/01/1943 vì thiếu dinh dưỡng.

   Theo website peoples.ru bằng tiếng Nga chuyên giới thiệu tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, tại  trang  http://www.peoples.ru/science/botany/vavilov/index.html ghi tiểu sử của N.I. Vavilov thì nhà bác học này bị tuyên án tử hình ngày 09/7/1941 cùng với nhiều người khác nhưng đến ngày hành quyết  là 28/7/1941 thì một mình ông đươc hoãn lại, và đến ngày 23/6/1942, được giảm mức án xuống 20 năm tù, nhưng chỉ nửa năm sau đó thì ông qua đời. Sergei Pavlovich Korolev (.1907 – 1966), tác giả của tên lửa vũ trụ Xô-viết cũng phải ở tù từ ngáy 22/6/1938 đến ngày 27/6/1944.

Tuy nhiên,những sự thật đen tối như vậy đã được giữ kín, chỉ những người thân của các nạn nhân mới biết nên hầu như không ảnh hưởng đến uy tín của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô.trong lòng nhân dân Việt Nam.

II.            Về tên gọi “Viện sĩ”

1.    Thế nào là Viện sĩ ?

      Câu hỏi này tưởng như  là do một kẻ dốt đặc nêu ra, nhưng không hẳn như thế.
      Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì, viện sĩ là thành viên viện hàn lâm (thường là viện hàn lâm khoa học).

      Định nghĩa như vậy, tưởng như không có gì sai, nhưng thực ra thì chưa ổn.
      Trong một Viện hàn lâm thì các Viện sĩ phải là những người quyết định các vấn đề khoa học thuộc chương  trình hành  động của Viện. Đành rằng, trong Viện hàn lâm cũng có ông chủ tịch và các ông trưởng ban nọ, trưởng bộ phận kia, nhưng đó chỉ là những chức vụ  về tổ chức chứ không có ý nghĩa quyết định trong các vấn đề khoa học. Trong khoa học, ông chủ tịch Viện hàn lâm cũng là một Viện sĩ, lá phiếu của ông ta không thể có “trọng lượng” hơn lá phiếu của các Viện sĩ khác. Những người chỉ được tham dự  một số  công việc của Viện hàn lâm thì không thể gọi là Viện sĩ. Các viện nghiên cứu của nước ngoài mà tiếng Việt hiện nay gọi là Viện hàn lâm đều mang các chữ Academy, Académie, và Akademiya trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga. Các thành viên trụ cột của  các viện nghiên cứu ấy ở  Anh, Pháp và Nga được gọi là Acadenician, Académicien, Akademik mới đích xác là viện sĩ.  Ở một số  Viện hàn lâm của các nước châu Âu, nhiều khi còn có các thành viên ở ngạch thấp hơn, không được tham dự những cuộc họp quan trọng, thường chỉ có quyền dự thính chứ không có quyên bỏ phiếu trong các cuộc họp. Những thành viên này không mang danh hiệu Académicien  (hay Academician, Akademik), họ không  và có tư cách của viện sĩ.

     Sau đây, tôi xin viện dẫn  mục Члены РАН trong bài  Росси́йская акаде́мия нау́к (Viện hàn lâm khoa học Nga) tại từ điển Wikipedia tiếng Nga (mà mọi người sử dụng Internet đều rất dễ tìm thấy) để diễn giải về các ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga.. Đó cũng  là quy định của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô trước kia.
.
 Члены РАН  

Членами Российской академии наук являются действительные члены РАН (академики) и члены-корреспонденты РАН. Главная обязанность членов Российской академии наук состоит в том, чтобы обогащать науку новыми достижениями. Члены РАН избираются общим собранием академии. Членами Российской академии наук избираются учёные, являющиеся гражданами Российской Федерации. Члены Российской академии наук избираются пожизненно. Действительными членами РАН избираются учёные, обогатившие науку трудами первостепенного научного значения.  Членами-корреспондентами РАН избираются учёные, обогатившие науку выдающимися научными трудами.
По состоянию на 23 декабря 2011 года среди членов РАН были 531 академик и 769 членов-корреспондентов.
                (Последнее изменение этой страницы: 15:35, 22 сентября 2012)
                   
  Xin đổi chữ РАН (Росси́йская акаде́мия нау́к) nghĩa là Viện hàn lâm KH Nga thành chữ RAS (Russian Academy of Siences) và chuyển đoạn văn trên đây sang tiếng Việt, như sau:

       Các thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga

      Các thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS) gồm có các thành viên chính thức (các viện sĩ - akademiki) và các thành viên thông tấn. Trách nhiệm chủ yếu của các thành viên RAS là phải đóng góp cho khoa học bằng những thành tựu mới. Hội nghị toàn thể của Viện hàn lâm bầu ra các thành viên của  Viện. Các nhà bác học được bầu làm thành viên RAS phải là công dân của Liên bang Nga. Các thành viên RAS được bầu suốt đời. Các nhà bác học đã hoàn thành những công trình có ý  nghĩa khoa học hàng đầu để cống hiến cho khoa học  thì được bầu làm thành viên chính thức (trở thành viện sĩ). Các nhà bác học đã góp những công trình khoa học xuất sắc  cống hiến cho khoa học thì được bầu làm thành viên thông tấn.

 Theo tình trạng đến ngày 23/12/2011, trong số các thành viên của RAS đã có 531 viện sĩ và 679 thành viên thông tấn   (LMC dịch)

    Như vậy, theo từ điển Wikipedia tiếng Nga thì Viện hàn lâm khoa học Nga  có hai ngạch thành viên. Thứ nhất    thành viên chính thức  (действительные член, dịch thật sát nghĩa thì gọi là thành viên thực nhiệm), là akademik, là  viện sĩ. Thứ hai là thành viên thông tấn (член-корреспондент), có tư cách thành viên thấp hơn, không phải là thành viên chính thức, không được gọi là viện sĩ .Phải gọi  họ là những thành viên thông tấn chứ không thể gọi là viện sĩ thông tấn, bởi vì họ không phải là những  “akademik”. Danh hiệu “viện sĩ” (akademịk) chỉ được sử dụng  cho các thành viên chính thức, tức  là những thành v iên cao cấp nhất.

   Còn một ngạch thành viên nữa nhưng không được nhắc đến trong văn bản tiếng Nga này,  đó  thành viên nước ngoài  hay thành viên ngoại tịch, tiếng  Nga là иностранный член, mà ở nước ta đã có 5 người được nhận danh hiệu này, người ta vẫn gọi họ là Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô). Gọi như vậy là không đúng. Phải chăng, đây là ngạch thành viên thứ yếu, có tính chất hình thức, lễ nghi, không quan trọng, không có giá trị khoa học  cho nên từ điển  Wikipedia tiếng  Nga  đã bỏ qua? Quả thật, khó mà có cách giải thích khác hơn. Tuy thế, nó vẫn được nhắc đến trong văn bản tiếng  Anh tương ứng trên Wikipedia (dành cho đông đảo độc giả trên thế giới), như sau:

Membership

 There are three types of membership in the RAS: full members (academicians), corresponding members and foreign members. Academicians and corresponding members must be citizens of the Russian Federation when elected. However, some academicians and corresponding members had been elected before the collapse of the USSR and are now citizens of other countries. Members of RAS are elected based on their scientific contributions - election to membership is considered very prestigious. As of 2005-2007 there are just under 500 full members in the academy and a similar number of corresponding members.

       (Nguồn: mục Membership trong bài Russian Academy of Sciences,  Wikipedia tiếng Anh)

  Dịch sang tiếng Việt:
              Tư cách thành viên (của Viện hàn lâm khoa học Nga)
       Có ba ngạch tư cách thành viên trong Viện hàn lâm khoa học Nga: thành viên có tư cách đầy đủ, tức là thành viên chính thức, là viện sĩ  (academician), thành viên thông tấn (corresponding member) và thành viên nước ngoài (foreign member). Các viện sĩ và các thành viên thông tấn phải là công dân của  Liên bang Nga khi được bầu. Tuy vậy, một số viện sĩ và thành viên thông tấn đã được bầu trước khi Liên Xô sụp đổ, hiện nay  là công dân mới của các nước khác. Các thành viên của RAS được bầu dựa trên những cống hiến khoa học của họ, người được  bầu làm thành viên được coi là rất có danh giá. Trong những năm 2005 – 2007, ở Viện hàn lâm khoa học Nga  có gần 500 thành viên chính thức  (có tư cách đầy đủ tức là viện sĩ) và khoảng ngần ấy thành viên thông tấn  (LMC dịch).

      Tuy website chính thức  của Viện hàn lâm khoa học Nga không nhắc đến  ngạch thành viên nươc ngoài, coi như nó không tồn tại. Nhưng, ở bài viết về Viện hàn lâm khoa học Nga trong  từ điển Wikipedia tiếng Ạnh thì có nhắc đến một chút. Điều đó chứng tỏ rằng, đối với Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô), thành viên nước ngoài (иностранный член, foreign member) chỉ là thành viên hình thức, có ý nghĩa hết sức phù phiếm, mờ nhạt, đương nhiên  không thể là viện sĩ. Chưa cần xét đến thành tích và uy tín trong khoa học của từng thành viên loại nầy, chỉ riêng vấn đề quốc tịch đã không cho phép người nước ngoài trở thành viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên xô). Thành viên thông tấn (члены-корреспондент, corresponding member) của  Viện hàn lâm khoa học Liên Xô  (hoặc Nga) có tư cách thành viên thấp hơn viện sĩ, đương nhiên, họ không phải là viện sĩ nhưng có thể coi như những bậc đàn em bên cạnh các viện sĩ..

        Viện hàn lâm Pháp (Académie franaise) vốn là ”ngôi đền” để tôn vinh các vĩ nhân của nước Pháp cho nên chỉ có ngạch thành viên chính thức tức là các viện sĩ chứ không có các ngạch  thấp hơn. Nhưng ở các Viện hàn lâm khác thì thường vẫn có vài ngạch thành viên, trong đó, ngạch cao nhất là thành viên chính thức, tiếng Pháp gọi là membre titulaire (nhưng người ta thường viết  là membre mà không cần có chữ titulaire) mới là viện sĩ (tức là académicien)

       Hai tiếng “viện sĩ” hiện nay nghe rất quen tai nhưng hình như cũng mới xuất hiện ở Việt Nam chừng nửa thế kỷ. Trong quyển Hán- Việt từ điển của Đào Duy Anh không có từ này. Giở quyển Pháp – Việt từ điển, xem chữ Académicien, thấy cụ Đào viết:  Académicien: 1. Nhà triết học về phái Platon; 2. Hội viên của Quốc gia học hội  ,; hội viên tòa Hàn lâm nước Pháp. Lại xem tiếp các quyển từ điển Pháp – Việt    Việt – Pháp của Đào Văn Tập hay của  Đào Đăng Vĩ  in ở Sài Gòn hồi những năm 50 – 60 của thế kỷ trước, cũng không thể tìm thấy chữ  “viện sĩ”.

        Giở mấy  quyển từ điển của Trung Quốc hiện có trên giá sách của tôi như  Cổ kim Hán ngữ từ điển, Cổ kim Hán ngữ thực dụng từ điển hay Tân hiện đại Hán ngữ từ điển (kiêm tác Anh-Hán từ điển)  thì thấy quyển nào cũng có từ “viện sĩ”, với  lời diễn giải giống nhau. Quyển  Tân hiện đại...viết:  院士(viện sĩ): academician; nhân viên nghiên cứu cao cấp nhất của các bộ phận thuộc viện khoa học ở một số quốc gia. Định nghĩa như vậy là chặt chẽ và chính xác.

       Tiếp tục tìm hiểu thêm thì biết rằng, ở Trung Quốc lâu nay không hề sử dụng tên gọi “viện hàn lâm” để chỉ các viện khoa học, nhưng  họ vẫn có các viện sĩ. Hiện tại, ở nước này có hai loại viện sĩ có uy vọng ngang nhau, đó là: Viện sĩ  Viện khoa học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences, CASvà Viện sĩ Viện công trình Trung Quốc (Chinese Academy of Engineering, CAE), gọi tắt là Viện sĩ Trung khoa việnViện sĩ Trung công viện. Người Trung Hoa bắt đầu sử dụng từ  “viện sĩ”  từ tháng 3 năm 1948, Khi đó, lần đầu tiên, từ Viện sĩ: được sử dụng để gọi các nghiên cứu viên cao cấp nhất của Viện nghiên cứu Trung ương (tức Trung ương nghiên cứu  viện中央研究, Academia Sinica, gọi tắt là Trung nghiên viện), cơ quan nghiên cứu học thuật cao nhất của chính  quyền Trung Hoa dân quốc.

2.                  Tên gọi “Viện sĩ” phải đi kèm với tên của Viện hàn lâm (hay Viện nghiên cứu) 

Như quý vị độc giả đã thấy, nước Pháp có chừng một chục viện học thuật được gọi là Académie..., tức là có chừng một chục viện hàn lâm khác nhau, không thể lẫn lộn. Do đó, không thể  có một ngạch viện sĩ chung chung, mà phải phân biệt viện sĩ của Viện hàn lâm X hay của  Viện hàm lâm  Y. Ở Pháp, Académie franaise (mà ta gọi là Viện hàn lâm Pháp).là Académie nổi tiếng nhất, chỉ cần nói đến  l’Académie là người ta nghĩ ngay đến Académie franaise, cũng như ở Việt Nam hay ở Liên xô trước đây, hễ nói đến đảng thì có nghĩa là nói đên đảng Cộng sản. Do đó, từ Académicien (hoặc Membre de l’Académie) nghĩa là viện sĩ của một viện hàn lâm, nhưng  khi nó được sử dụng một mình thì có nghĩa là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp (đúng như cụ Đào Duy Anh đã giảng), cũng như ở nước ta, khi nói “ông A là ủy viên trung ương  có nghĩa rằng, ông ấy là ủy viên của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt nam, còn nếu là ủy viên Ban chấp hành trung ương Hội nông dân Việt Nam hay ủy viên Ban chấp hành trung ương Mặt trận Tổ quốc việt nam thì phải ghi thật đầy đủ, không thể gọi rút ngắn là ủy viên trung ương được. Cũng tương tự như vậy, không thể nói bà Hillary Clinton là đảng viên, mà phải nói rằng, bà Hillary Clinton là đảng viên của đảng Dân chủ ở Mỹ.

 Ở Trung  Quốc, cả Trung khoa viện (Viện khoa học Trung Quốc) và Trung công viện (Viện công trình Trung Quốc) đều chưa có cái nào nổi trội hơn hẳn, cho nên không thể nói đến  viện sĩ A hay viện sĩ B, mà phải phân biệt viện sĩ Trung khoa viện với viện sĩ Trung công viện.

 Trong tiếng Nga, chữ  aкадемик  (akademik, tương đương với académicien trong tiếng Pháp và academician trong tiếng Anh) có nghĩa là thành viên chính thức của một Академия. Cũng tương tự như ở Pháp, ở Liên Xô (và ở Nga hiện nay) có rất  nhiều Академия, tức là rất nhiều Viện hàn lầm, nhưng vì Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (nay là Viện hàn lâm khoa học Nga) quá nổi tiếng và  quen thuộc với mọi người trên đất nước ấy, cho nên, chữ akademik mà không kèm theo định ngữ nào  nữa thì có  nghĩa là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, tương tự như từ “đảng viên” ở Việt Nam hiện nay có nghĩa là đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam. Viện sĩ của các viện hàn lâm khác thì phài ghi rõ là akademik của viện nào, nếu nhận là akademik mà không có định ngữ kèm theo (khiến mọi người hiểu là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Liên xô) thì điều đó được coi là một sự gian dối.

   Phải nhấn mạnh mấy chữ thành viên chính thức là vì, ở Liên Xô trước đây và ở Nga ngày nay cũng như ở các nước khác còn có các ngạch thành viên không chính thức của viện hàn lâm, không phải là viện sĩ, như chúng tôi đã nói ở trên.
                                                                     
III.         Những nhầm lẫn tai hại trong việc sử dụng tên gọi “viện sĩ”

1.    Sử dụng không đúng theo tập quán ngôn ngữ của mọi nước

     Như chúng tôi đã nói ở trên, Viện hàn lâm nào cũng có tên rõ ràng  và viện sĩ của các Viện ấy được phân biệt với nhau theo tên của từng Viện. Vị thế của một người mang danh hiệu viện sĩ luôn luôn gắn liền với hình ảnh quá khứ và hiện tại của Viện mà ông ta được bầu làm viện sĩ. Bởi vậy, khi nói đến một viện sĩ thì phải nêu rõ là viện sĩ của viện nào, ở nước nào. Ví dụ, nhà bác học Pháp Jules Hoffmann trong những năm 1992 – 2011 là Membre de l’Académie des sciences (viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Pháp), cũng đã quá sang trọng, nhưng từ ngày 01/3/2012, ông trở thành Membre de l’Académie (mất các chữ des sciences, nghĩa là các khoa học) tức là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, đứng vào hàng “bất tử” của nước Pháp. Bây giờ,  nếu ai đó không chịu bỏ bớt các chữ des sciences cho ông thì có nghĩa là đã hạ thấp địa vị của ông. Ngược lại, giả sử trước tháng  3/2012, nếu ông Jules Hoffmann để cho anh thư ký “bỏ quên” các chữ des sciences thì điều đó đồng nghĩa với sự dối trá. 

      Hàng ngày chúng ta thấy  báo chí  và tivi nhắc đến viện sĩ Nguyễn, viện sĩ Trần, viện sĩ Phan, các viện sĩ X, Y, Z, v.v. Cái danh hiệu viện sĩ ấy không xuất phát từ Việt Nam (vì nhà nước Việt Nam chưa phong tặng danh hiệu viện sĩ cho các nghiên cứu viên cao cấp nhất của một viện nào cả),  mà là do họ mang từ nước ngoài về, từ nhiều nước khác nhau. Vậy mà họ đều được gọi bằng cùng một cái tên là viện sĩ. Như thế thật là không ổn. Thử hình dung một tình huống như sau.. Có 5 ông là Phan A, Trần B, Nguyễn C, và X, Y, mỗi ông đi đến một nước. Ông Nguyễn C  sang Nga  rồi gia nhập đảng Nước Nga thống nhất, ông Trần B sang Nhật rồi vào đảng Dân chủ - Tự do (LDP), ông Phan A sang Pháp rồi gia nhập đảng Cộng sản Pháp, các ông X và Y thì sang Mỹ, vào đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ. Nói tóm lại là ông nào cũng trở thành đảng viên của một đảng nào đó ở mỗi nước. Khi về Việt Nam, tất cả các ông ấy có thể  tự xưng là đảng viên hay không?. Tuy mỗi ông đều là đảng viên của một đảng nào đó nhưng tiếng Việt không thể  chấp nhận cách xưng hô như vậy. Các ông  ấy nhất thiết  phải ghi rõ: Phan A - đảng viên đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn C – đảng viên đảng nước Nga thống nhất, v.v.

        Đối với danh hiệu viện sĩ cũng tương tự như vậy. Nếu  quả  thật các GS Phan A, GS Trần B, GS Nguyễn C , v.v.  đã trở thành viện sĩ của các Viện nào đó ở các nước kể trên thì họ cũng phải ghi danh vị của mình giống như mẫu kê khai đảng tịch vừa kể. Đương nhiên là hai chữ viện sĩ không thể đứng trước họ-tên của các ông. Chỉ khi nào ở Việt Nam có một Viện hàn lâm, hoặc một Viện nào đó rất nổi tiếng mà toàn dân đều biết như đảng Cộng sản Việt Nam vậy, rồi nhà nước Việt Nam  ra quyết nghị phong tặng danh hiệu viện sĩ  cho họ, khi dó, các GS kia mới đĩnh đạc ghi danh của mình  là VS Phan A, Viện sĩ  Trần B, VS Nguyễn C, v.v. Cũng xin nhắc rằng, lúc ấy các ông  nên vứt cái chữ GS đi, vì  ta có đến hang trăm, hang ngàn GS, nhưng số viện sĩ nếu có thì sẽ ít hơn rất nhiều, vì thế, VS sang trọng hơn GS  rất nhiều. Ai cũng biết rằng, những người có chức vụ cao hoặc tước vị cao, người nào  mà chẳng trải qua những chức vụ, những tước vị thấp hơn, lẽ nào cứ phải ghi hết hoặc gần hết các chức vị ấy.. Các vị akademik ở Nga chẳng bao giờ ghi thêm danh hiệu giáo sư cả, bởi vì ở đó  có hàng vạn  giáo sư,  nhưng số akademik (viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô) lúc cao nhất chỉ hơn 300 người.

2. Sai lệch quá lớn giữa danh vị thật và danh vị được quảng bá.

        Báo chí và đài phát thanh, truyền hinh ở nước ta đã từng đưa tin và nhiều lần nhắc đến việc các giáo sư A, B, C nào đó được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên xô (hoặc Nga). Cùng một ông, có nơi ghi là viện sĩ của  Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga), có nơi lại ghi là viện sĩ nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga). Hiên tượng đó chứng tỏ rằng, những người đưa tin (hay cả những người được tặng danh hiệu?) chưa hiểu quy chế về ngạch bậc đối với các thành viên của Viện hàn lâm khoa học này. Họ tưởng rằng, thành viên của Viện hàn lâm thì ắt là viện sĩ. Nhưng sự thực thì không phải như vậy. Chúng tôi đã nói khá kỹ về điều này ở tiểu mục 1. của phần II trên kia.

         Tra cứu trong danh sách viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên xô và Viện hàn lâm khoa học Nga, chúng ta không thể tìm thấy tên một người Việt Nam nào cả. Thực ra, sự tra cứu  ấy là một việc không cần làm, vì yêu cầu về  quốc tịch đã quy định không thể có người nước ngoài trở thành viện sĩ của Viện hàn lâm này.  Nhưng trong danh sách các thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Nga (gồm cả từ thời Liên Xô) thì có tên 5 người Việt Nam  Hiển nhiên, họ không phải  là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô) như lâu nay chúng ta đã gọi nhầm, hiểu lầm. Họ là thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm ấy. Đối với người  Nga, hình ảnh  của các thành viên này hết sức mờ nhạt, chỉ có tính chất hình thức, ngoại giao, đến nỗi  từ điển  Wikipedia tiếng  Nga không hề nhắc đến. Lâu nay, ở nước ta, họ vẫn tự xưng hoặc được mọi người  xưng tụng là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (hoặc Nga). Bất cứ nơi nào có tên của  họ, bao giờ  cũng có các chữ VS hoặc viện sĩ  đứng ở phía trước, ví dụ: VS Nguyễn C..hoặc Viện sĩ Trần B. Viết như vậy là đã phạm hai lỗi. Thứ nhất là lỗi về tiếng Việt, vì ở nước ta., từ “viện sĩ” chưa có nghĩa cụ thể như từ “đảng viên” (để chỉ đảng viên của Đảng cộng sản  Việt Nam), cho nên, phải viết rõ là viện sĩ của viện gì.. Thứ hai là, ông  Nguyễn C hay ông Trần B ấy không phải là viện sĩ Viên hàn lâm khoa học nào cả vì họ đều mang quốc tịch Việt Nam. Để không phạm phải  hai lỗi ấy thì phải viết như sau: Nguyễn Văn X, thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Nga.

         Trong thời kỳ mà Liên Xô còn tồn tại, hầu hết các nước XHCN ở Đông Âu cũng đều có Viện hàn lâm khoa học sao chép theo mẫu của Liên Xô. Bởi vậy, nếu có người Việt Nam nào đó đã từng được báo chí trong nước gọi là viện sĩ của nước này nước nọ thì cũng giống như trường hợp ở  Liên Xô vậy..
3. Cuộc tuyên truyền rầm rộ cho một mỹ hiệu hão huyền

      Đầu tháng 7/2011, hàng loạt báo chí nước ta rầm rộ đưa tin GS Phan Huy Lê được vinh danh là viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Bản tin của Nhà xuất bản Tri thức (ngày 11/7/20110) có tiêu đề GS Phan Huy Lê trở thành viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Trong các cuộc hội nghị và các cuộc liên hoan, ăn mừng, chúc tụng, mọi người đều khẳng định rằng từ  nay  GS Phan Huy Lê đã trở thành viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Lúc đó, tôi thấy nét mặt ông thật hồn nhiên đầy vẻ đắc thắng, mãn nguyện, rạng rỡ tươi cười đón nhận mỹ hiệu cao quý ấy. Mọi người hết sức cung  kính và thán phục, cảm thấy tự hào khi đứng trước một viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ngót năm thế kỷ vừa qua, chỉ những đại trí thức kiệt xuất nhất của nước Pháp may ra mới được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp (Membre de l’Académie franaise), và họ được gọi là những người “bất tử” (Immortels) của nước Pháp, được dân chúng nước Pháp tôn thờ muôn đời. Thế mà từ nay, một người Việt Nam quê ở Hà Tĩnh  được vinh dự đứng trong hàng ngũ ấy. Thật là một niềm hãnh diện ngút trời đến với mọi người dân đất Việt.

     Báo điện tử của  Đảng Cộng sản Việt  Nam, ngày 16//07/2011  đã đưa tin:


           Bản tin của Đảng Cộng sản  Việt Nam  in đậm dòng chữ  - Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa học xã hội Việt Nam trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm Phápmột Viện hàn lâm có uy tín hàng đầu trên thế giới, tiếng Pháp gọi là L’Académie franaise.  Có chỗ lại viết rằng, GS Phan Huy Lê  viện sĩ thông tấn nước ngoài của Viện Hàn lâm văn khắc và mỹ văn (tiếng Pháp là Académie des Inscriptions et Belles-Letres. mà cụ Đào Duy Anh dịch là Viện Bi ký  và Mỹ văn). Tiếp theo, bản tin lại khẳng định  rằng ông là người đầu tiên của ngành Khoa học xã hội Việt Nam có được vinh dự trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp, rồi GS Đinh Xuân Lâm cũng nhắc lại rằng, GS Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp.

               Giáo sư Phan Huy Lê  - Niềm tự hào của nền sử học nước nhà



Giáo sư Phan Huy Lê. (Ảnh: Bùi Tuấn)
(ĐCSVN) - Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa học xã hội Việt Nam trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Vinh dự này thuộc về Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê khi ông vừa được Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn (thuộc Học viện Pháp quốc) bầu là Viện sĩ Thông tấn. Điều này không những khẳng định những đóng góp to lớn, tài năng và uy tín của GS Phan Huy Lê mà còn là niềm vinh dự lớn lao của giới sử học nước nhà, khẳng định vị thế của khoa học lịch sử Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
                       Niềm tự hào của giới sử học
       Đầu tháng 7-2011, tên tuổi của GS Phan Huy Lê một lần nữa trở thành niềm tự hào của học trò, đồng nghiệp trong nước và quốc tế, bởi ông là người đầu tiên của ngành Khoa học xã hội Việt Nam có được vinh dự trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp. Điều này không những khẳng định những đóng góp to lớn, tài năng và uy tín của GS Phan Huy Lê mà còn là sự tôn vinh nền sử học Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. GS, Nhà giáo Nhân dân Đinh Xuân Lâm- Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, người đồng hương, đồng môn và đồng nghiệp của GS. Phan Huy Lê khẳng định: Đây là một tin rất vui, tin mừng vì đây không chỉ là tôn vinh cá nhân mà là tôn vinh cả nền sử học của nước ta trong thời kỳ hội nhập và phát triển. Theo tôi, với việc GS Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp như vậy tạo điều kiện cho giới khoa học- xã hội VN nói chung và giới sử học nói riêng có điều kiện thuận lợi, có cơ hội để đặt quan hệ rộng rãi với sử học thế giới và trên cơ sở đó chúng ta đi vào thời kỳ hội nhập và phát triển thuận lợi hơn..
       Nhiều bản tin khác cũng đưa tin về việc GS Phan Huy Lê trở thành Viện sĩ của  Viện  hàn lâm Pháp. Sau đây là một số hình ảnh  cụ thể:






         Cứ xem danh sách các viện sĩ  Viện hàn lâm Pháp từ khi thành lập đến năm 2012 thì biết rằng, đã xẩy ra một sự nhầm lẫn nghiêm trọng và kéo dài. GS Phan Huy Lê không có tên trong danh sách đó, và chắc chắn rằng  ông không thể là Viện sĩ của Viên hàn lâm Pháp. Nếu gọi là viện sĩ thông tấn của  Viện Bi ký  và Mỹ văn (được viết bằng tiếng Pháp là Membre correspondant) thì cũng không  đúng, vì viện này không hề  có cái chức danh ấy. Ở Viện hàn lâm khoa học Nga, sau các Viện sĩ thì  có các thành viên thông tấn (члены-корреспонденты) mà phải là những người mang quốc tịch Nga.. Để kiểm tra lại cho kỹ càng, tôi đã  tìm đọc bài viết về Académie des Inscriptions et Belles-Letres trên từ điển Wikipedia tiếng Pháp. Văn bản này được chỉnh lý lần cuối cùng vào ngày 02/9/2012, trong đó không có một chữ nào nói đến membre-correspondant hoặc correspondant của Viện này. Tôi lại tìm đọc Liste des membres de l'Académie des inscriptions et belles-lettres de l'Institut de France.tức là  Danh sách các thành viện của Viện Bi ký và Mỹ văn ở Pháp, nơi mà các báo đưa tin là GS Phan Huy Lê được bầu làm viện sĩ thông tấn nước ngoài, nhưng vẫn không thể tìm thấy tên ông.

        Theo danh sách này, từ khi thành lập (năm 1663) đến  ngày 02/9/2012, cả thảy  có 670 vị  là thành viên người Pháp (viện sĩ), trong đó có ghi rõ chức vụ, nghề nghiệp, lĩnh vực nghiên cứu, năm sinh, năm mất, năm được bầu làm viện sĩ. Năm 2011, Viện đã bầu 3 viện sĩ là Franois Déroche (sinh năm 1954), Jean Guilaine (sinh năm 1936) và Véroniquee Schiltz (sinh năm 1942). Năm 2012, Viện cũng bầu  3 viện sĩ là Pierre  Gros (sinh năm 1939), Jehan Desanges (sinh năm 1929) và  Jacques Verger (sinh năm 1943). .

        Bên cạnh danh sách này, còn kèm theo danh sách Associés (chúng tôi tạm dịch là các cộng sự viên, hay thành viên cộng sự), Associés libres (cộng sự viên tự do) và Associés  étrangers (cộng sự viên nước ngoài).Tất cả các danh sách này đều  không có tên GS Phan Huy Lê. Trong danh sách Associés  étrangers, chúng tôi thấy có tên ông Norodom Sihamoni, đương kim Quốc vương  Căm-pu-chia (sinh năm 1953, được bầu chọn từ năm 2008)
      
         Cần nhớ rằng, từ năm 1663 đến nay, Viện này đã 4 lân thay đổi tên và 5 lần thay đổi quy chế về thành viên, trước đây có khi gồm vài ngạch viện sĩ và vài ngạch cộng sự viên. Hiện nay, có một ngạch viện sĩ người  Pháp và một ngạch thành viên cộng sự, người nước ngoài.
        
         Như vây, GS Phan Huy Lê không có tên trong danh sách các viện sĩ các cộng sự viên (associés)  của Académie des Inscriptions et Belles –Lettres. Vì không có ngạch thành viên thông tấn nên không có gì bám víu để  từ đó có thể cố ý dịch sai, biến ông thành viện sĩ thông tấn. rồi nhích dần lên viện sĩ.
       
         Để tìm cho rõ danh vị của GS Phan Huy Lê trong Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn,  tôi phải tìm website chính thức  (Official website) của viện này tại  địa chí: http://www.aibl.fr/?lang=fr )

         Tìm đến  trang chủ của Website này, click vào mục MEMBRES (hoặc tìm trực tiếp tại địa chỉ:: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr  thì sẽ thấy một trang nói rõ về các ngạch thành viên, như sau:

Membres   
   L’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres se compose de cinquante-cinq académiciens de nationalité française et de quarante associés étrangers. Elle comprend également cinquante correspondants français et cinquante correspondants étrangers.
     L’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres réunit en son sein des personnalités de qualification exceptionnelle, hautement représentatives. Les académiciens sont des savants élus à vie par leurs pairs en raison de la qualité de leurs travaux dans les disciplines relevant de la compétence de l’Académie (archéologie, histoire, philologie et leurs multiples branches et spécialités), de leur puissance de travail ainsi que de leur renommée internationaleLorsqu’un fauteuil d’académicien est déclaré vacant par suite de décès, l’Académie décide, à la majorité des suffrages exprimés, de l’opportunité de pourvoir à son remplacement ; si tel est le cas, le Bureau propose une date pour
l’élection du nouveau membre, sinon, une nouvelle délibération a lieu sur la question après un délai de six mois. Contrairement à une règle généralement de mise dans le monde académique, il n’y a pas d’appel à candidature à l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, chaque académicien ayant la liberté de proposer un candidat dont il fait distribuer les titres et travaux. L’élection a lieu au scrutin secret et à la majorité absolue des académiciens présents.
       Les associés étrangers, élus selon le même principe et souvent membres des Académies les plus prestigieuses de leur pays, sont choisis parmi les maîtres les plus éminents à travers le monde. Quant aux correspondants, ils assurent un rôle de relais de l’information scientifique auprès de l’Académie et participent à sa vie et à ses travaux ; choisis par les académiciens, ils constituent un vivier de personnalités de premier plan parmi lesquelles l’Académie a pris l’habitude de recruter souvent ses nouveaux membres.            (Nguồn: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr)
Dịch sang tiếng Việt:: 

          Các thành viên (của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn)
     Viện HL Bi ký và Mỹ văn gồm có 55 viện sĩ (académiciens) có quốc tịch Pháp và 40 cộng sự viên nước ngoài. Nó còn bao gồm 50 thông tín viên (corresondants) người Pháp và 50 thông tín viên  nước ngoài.

     Viện HL Bi ký và Mỹ văn tập hợp các nhân vật đạt trình độ nghiệp vụ ngoại hạng  có tính đại diên cao. Các viện sĩ là những nhà bác học được những người đồng đẳng bầu suốt đời do phẩm chất của những công trình của họ trong các bộ môn thuộc thẩm  quyền của Viện (khảo cổ học, lịch sử,  ngữ văn học, cùng nhiều ngành và nhiều chuyên khoa của chúng), do năng lực làm việc và thanh danh quốc tế  của họ.
      Khi một chiếc ghế bành  (fauteuil) viện sĩ  được tuyên bố là khuyết vì chủ nhân đã qua đời, Viện sẽ  theo đa số những ý kiến được bày tỏ để quyết định cơ hội bổ nhiệm người thay thế; trong trường hợp đó, Văn phòng sẽ đề nghị một ngày để bầu thành viên mới, nếu không, thì phải có một cuộc thảo luận về vấn đề này sau thời hạn sáu tháng. Khác với quy tắc thường được áp dụng trong giời học thuật, không có việc kêu gọi ứng cử vào Viện Bi ký và Mỹ văn, mỗi viện sĩ được tự do đề cử một ứng cử viên, giới thiệu các chức vị và các công trình  của người ấy. Việc bầu chọn được thực hiện bằng cách bỏ phiểu kín và theo đa số tuyệt đối của các viện sĩ  có mặt.

      Các cộng sự viên nước ngoài, được bầu theo đúng nguyên tắc như vậy, và thường là viện sĩ của các Viện có uy tín nhất ở nước họ, được chọn trong số những bậc thầy nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn về các thông tín viên (correspondant), họ giữ vai trò trạm thông tin khoa học  bên cạnh Viện HL Bi ký và Mỹ văn  và tham gia sinh hoạt cùng các công việc của Viện; họ được các viện sĩ bầu  chọn, họ hợp thành một nhóm nhân vật quen thuộc hàng đầu để từ đó, Viện  tuyển chọn các thành viên mới, theo thói  quen thường  có.   (LMC dịch)
                                                                                                                                 
       Qua đoạn văn trên đây, chúng ta biết rằng, các cộng sự viên nước ngoài (Associés étrangers) là những nhà bác học lớn có tầm cỡ  ngang hàng với các viện sĩ người Pháp, nhưng họ vẫn không phải là viện sĩ vì họ không mang quốc tịch Pháp. Còn các correspondant,  phâỉ dịch chính xác là  thông tín viên, hay người truyền tin vì họ được xác định là các trạm thông tin khoa học bên cạnh Viện HL Bi ký và Mỹ văn. So với viện sĩ, họ có cương vị thấp hơn rất nhiều, họ cũng không được bầu suốt đời (thông tín viên Francisco Rico, người Tây Ban Nha mà GS Phan đã thay thế, sinh năm 1942, vẫn đang sống). Họ cũng không nhất thiết phải là những ứng cử viên sẵn có để chờ khi có viện sĩ qua đời thì sẽ được chọn lựa. GS Phan Huy Lê được chọn làm người truyền tin nước ngoài  ngày 27/5/2011 cùng với 7 người khác. Trước đó một năm rưỡi, ngày 06/11/2009, Viện này cũng đã thay  8 người truyền tin nước ngoài và  8 người truyền tin trong nước. 

        Sau đây là  văn bản chình thức của Viện Hàn lâm Bi ký và Mỹ văn về việc chỉ định GS Phan Huy Lê làm thông tín viên nước ngoài (correspondant  étranger)        



Dịch sang tiếng Việt:
                                                   PHAN HUY
                        Hiệp sĩ Lá cọ hàn lâm
,                       Sinh tại Thạch –Châu (Việt Nam), 23 tháng hai 1934
                        Nhà Đông phương học, chuyên gia về lịch sử nông thôn, lịch sử văn hóa và
                             lịch sử  quân sự của Việt Nam, Chủ tịch Hội sử học Việt Nam.
             
                        Được chỉ định làm thông tín viên nước ngoài (correspondant étranger) từ ngày 27
                              tháng  5 năm 2011 để thay cho Francisco Rico 

 Ghi chú:  Hiệp sĩ lá cọ hàn lâm là danh hiệu của “Người được tặng huân chương Văn hóa –
                    Giáo dục  hạng 3, hạng thấp nhất, để tặng cho giảng viên có trên 15 tuổi nghề


            Hơn một năm qua, mọi người đã tôn xưng GS Phan Huy Lê khi thì là viện sĩ, lúc thì là viện sĩ thông tấn Viện HL bi ký và mỹ văn Pháp. Nhiều nơi, nhiều lúc, nhiều người, trong đó GS  Đinh Xuân Lâm đã nói rằng, GS Phan Huy Lê được bầu vào Viện hàn lâm Pháp, đồng nghĩa với việc ông trở thành con người “bất tử” của nước Pháp, được người Pháp thờ  phụng muôn đời. Nhưng sự thực thì GS  Phan Huy Lê chỉ được Viện hàn lâm  bi ký và mỹ văn chỉ định làm thông tín viên, làm việc của một nghiên cứu viên cấp thấp.

        Phải coi việc GS Phan Huy Lê được chỉ định  làm thông tín viên của Viện HL Bi ký và Mỹ văn là một vinh dự và may mắn lớn đối với ông. Tuy thế, đó vẫn là một việc rất rất nhỏ, chưa đáng để cho báo chí ở Pháp đưa tin, chỉ có các bản tin tiếng Việt phóng đại quá sai mà thôi. Phải tìm ở website của L’Académie des Inscriptions et Belles Lettres thì mới có thể tìm thấy tin này bằng tiếng Pháp.

          Sự hồn nhiên của ông chủ tịch Hội sử học khi đón nhận những lời xưng tụng quá phóng đại do chính ông đưa ra, thật đáng trách. Lẽ ra, vinh dự mà mình được hưởng đến đâu thì cứ khoe đến đấy, đằng  này lại khoe quá đà, sai hẳn sự thật, để cho gần một trăm triệu người Việt Nam hiện tại (nếu kể cả mai sau thì còn nhiều lắm) bị lấm lẫn, từ thạch anh lại tưởng là ruby thượng hạng  hoặc kim cương, để rồi khi vỡ lẽ ra thì lại thất vọng ê chề, chán chường, bực tức rồi quay ra chửi đổng.

       Trước đây, khi một  thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô) xuất hiện trên báo chí dưới danh hiệu là viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Nga   (hoặc Liên Xô), ví dụ, ông  Nguyễn B chẳng hạn, bao giờ cũng thấy viết là GS.VS. Nguyễn B. Viết như vậy là phạm liền mấy lỗi, như đã phân tích ở trên.  Nhưng thật khó biết đó là lỗi của nhà báo, của biên tập viên, lỗi của nhân viên đánh máy hay là lỗi của chính ông Nguyễn B. Riêng về GS Phan Huy Lê, người ta thấy có nhiều lần ông đã tự xưng là GS.VS.Phan Huy Lê rồi ký tên và đóng  dấu của Hội Khoa học lịch sử.

       Nói tóm lại, GS Phan Huy Lê    thông tín viên (correspondant) của Viện hàn lâm Bi ký và  Mỹ văn (L’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres), một Viện học thuật nổi tiếng  vào hạng thứ tư hoặc thứ năm ở Phá, chưa ai dám so sánh nó với Viện hàn lâm Pháp. Ông không  hề là “viện sĩ” của một Viện nào cả, lại càng không thể là Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp như chính ông cùng hệ thống báo chí toàn quốc  đã từng  ngộ nhận và tuyên truyền rầm  rộ rồi coi đó là một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.. 

VI.  Vài lời  cuối  bài

         Đây là bài lược khảo về các tên gọi “viện hàn lâm” và “viện sĩ”. Nếu viết kỹ hơn thì còn rất nhiều điều đáng nói, có cả chuyện “cười ra nước mắt” nữa. Nhưng, tác giả  nghĩ rằng, ngần ấy cũng đã khá đủ để chúng ta có những hiểu biết cơ bản về các tên gọi như viện hàn lâm và viện sĩ, académie (hoặc academy, akademiya...) và académicien (hoặc academician, akademik...), và cuối cùng nhận rõ không ít sai lầm tai hại trong việc sử dụng tên gọi “viện sĩ”. 

         Lâu nay ở nước ta, các tên gọi “viện hàn lâm” và  “viện sĩ” hình như có sức mê hoặc  phi thường và rất nhiều người muốn khai thác chúng một cách triệt để. Cho nên, cứ hễ ớ đâu có  Academy là lập tức được dịch ra ngay thành Viện hàn lâm, hễ dính một chút đến một Academy nào đó là  trở thành viện sĩ, và được nhiều người trầm trồ, thán phục. Sự ngưỡng vọng đối với viện hàn lâm và viện sĩ, có lẽ bắt đầu thể hiện đối với Viện hàn lâm Pháp (Académie franaise) từ thế hệ cha chú chúng tôi, tiếp nữa là  đối với Viện hàn lâm khoa hoc Liên Xô, bén rễ trong lòng nhiều thế hệ trước khi Liên xô sụp đổ. Tình cảm ấy bắt nguồn từ đức tính tốt là lòng yêu chuộng tri thức. Nhưng, khi thời thế đổi thay, thói giả dối, bệnh ham chuộng hình thức và hư danh bao trùm lên xã hội thì đức tính tốt ấy  bị lợi dụng và khai thác triệt để. Thói dối trá đã ngấm sâu vào máu của những người đã giành được ít nhiều danh lợi, đến mức trở thành bản năng, vô thức, tất yếu.

         Khi lương tâm và trách nhiệm công dân bắt buộc tôi phải viết vài này, nhiều khi tôi cảm thấy thẫn thờ, chán nản. Ôi, sao lại có chuyện lạ đời như thế này? Một giáo sư  nổi tiếng bậc nhất hiện nay, thường vẫn rao giảng về thái độ trung thực trong khoa học, về việc dấn thân để bảo vệ chân lý khoa học, nay lại đánh lừa cả nước ngót 100 triệu người ư? Mà lại lừa rất dễ. Ông ta đã được các cấp chính quyền cùng  toàn bộ hệ thống thông tịn tuyên truyền văn hóa giáo dục khoa học ra sức đề cao, tâng bốc, coi như một niềm tự hào của đất nước. của dân tộc.Tôi băn khoăn tự hỏi, trước sự việc này, ta nên cười hay nên khóc, và đối với những người trong cuộc ấy, ta nên khinh ghét  hay nên thương hại?

        Tôi rất mong muốn nước ta có những “viện hàn lâm” (nếu  thấy cần phải gọi như thế) hoặc là một hay vài  viện nghiên cứu (của nhà nước và của tư nhân), trong đó nổi lên một viện có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển lành mạnh của đất nước, rất nổi tiếng và toàn dân ai ai cũng biết, dù nó có tên là Viện (hàn lâm) ABXFZ gì đó nhưng chỉ cần nói đến “Viện (hàn lâm)” là đủ biết mà không cần nói rõ tên, giống như từ “đảng’ hiện nay vậy. Khi đó, các thành viên trụ cột (không phải là “tứ trụ” mà có thể là “nhị thập tứ trụ” hay là “tứ thập nhị trụ”, v.v.) được tôn xưng là Viện sĩ của viên ABXFZ, nhưng chỉ cần xưng “Viện sĩ” là đủ.. Lúc bấy giờ, các cụ Phan A, Nguyễn B, Trần C (nếu còn sống) sẽ được gọi là viện sĩ theo đúng nghĩa và họ tha hố vung bút thoải mái viết VS Phan A, viện sĩ Nguyễn B mà không sợ phạm lỗi tiếng Việt. Nhưng lúc đó phải lưu ý cấm các chú vệ sĩ không được viết tắt chữ “vệ sĩ” là VS, mà có lẽ nên cấm ngay từ bây giờ, vì nếu không cấm thì vệ sĩ Mạnh Huỵch chẳng hạn, lúc nào cũng có quyền giới thiệu mình là VS. Mạnh Huỵch mà không cần ai ban phát danh hiệu và không hề phạm lỗi tiếng Việt, bởi  vì vệ sĩ gần như là nghề nghiệp của ông ta, như ta vẫn thường  nói  ca sĩ Hồng Nhung hay nhạc sĩ Trần Tiến vậy. Ngoài ra, nếu Viện ABXFZ  được mọi người  biết đến vì nó đầy tai tiếng, lúc đó, xét về mặt ngôn ngữ học thì  viết VS Phan A hay viện sĩ Nguyễn B  cũng đều hoàn toàn đúng, nhưng  đó là cái đúng mà chúng  ta không mong muốn.

         Ở nước ta có hai Viện nghiên cứu lớn (không biết đã lớn nhất hay chưa) mà tôi khá quen biết, đó  Viện khoa học xã hội Việt NamViện khoa học và công nghệ Việt Nam. Cả hai Viện ấy  có tên bằng tiếng Anh, lần lượt là Vietnam Academy of Social siences  Viet Nam Academy of Science and Technology (chữ Việt Nam có khi viết liền, có khi viết rời, có khi viết Vietnamese). Vì khá nhiều người hiểu chữ Academy một cách “hàn lâm” chứ không nghĩ rằng ngày nay nó được sử dụng khá “thông tục” nên họ phê phán rằng, làm  ăn chẳng ra gì mà đã huyênh hoang khoác lác , dám vỗ ngực tự xưng là Academy. Theo tôi thì dịch như vậy không sai, Viện khoa học Trung Quốc cũng có tên  bằng tiếng Anh là Chinese :Academy of Sciences cơ mà. Còn cái tên bằng tiếng Việt  thì cũng tùy các nhà lãnh đạo cao cấp định đoạt, nhưng nếu gọi là Viện hay Viện hàn lâm thì giá trị của  nó cũng không hề tăng lên hay giảm xuống. Chiếc áo không làm nên thày tu, huống chi là một cái tên.

         Với tư cách một công dân cao tuổi, tôi viết bài lược khảo này để quý vị độc giả và  các nhà chức trách tham khảo nhằm hiểu  rõ hơn về  những danh hiệu mà suốt nhiều năm qua, các cơ quan báo chí và các nhà khoa học cùng toàn thể dân chúng đã hiểu sai, dấn đến những chuyện lố bịch, đáng hổ thẹn. Theo những địa chỉ của các nguồn tư liệu từ Internet mà tác giả đã sử dụng, bất cứ độc giả nào biết chữ Hán và tiếng  Nga, tiếng  Anh và tiếng Pháp đều có  thể kiểm tra ngay trước màn hình  của máy tính. Nếu ai đó phát hiện thấy có sự trích dẫn sai, hiểu sai, diễn  giải sai các  nguồn tư liệu ấy, thì tác giả sẵn sang chịu mọi hình thức buộc tội nghiêm khắc nhất. Người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm trước đông đảo độc giả và trước pháp luật về  nội dung của của toàn bài..

         Bài này đã được công bố trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển từ tháng 10 năm 2012 và vẫn lưu hành trên mạng Internet. Hẳn là nó đã khiến  không ít độc giả phải ngỡ ngàng kinh ngạc. Nhưng nó đã phản ánh đúng sự thật. Nếu tác giả phạm sai lầm nào đó thì sẽ bị phát hiện và phản bác ngay lập tức, không phải đợi lâu.   Ngoài 3 tháng sau ngày công bố mà chẳng ai phản bác được, khiến tác giả không thể chối cãi, thì điều đó hoàn toàn có nghĩa là, mọi độc giả, bao gồm tất cả những người có liên quan trực tiếp đến những điều được nêu ra trong bài này, đều đã thừa  nhận sự đúng đắn và tinh thần trách nhiệm của tác giả.

                                                                                              Lê Mạnh Chiến
                                                                                             Tháng 9 năm /2012

1 nhận xét: